Giúp trẻ phát triển ngôn ngữ thông qua văn học ( truyện kể )

Giúp trẻ phát triển ngôn ngữ thông qua văn học ( truyện kể )

I. MỞ ĐẦU

Chưa làm mẹ nhưng chứa chang tình mẹ

Bởi yêu nghề nên quý trẻ măng non

Dạy tiếng mẹ đẻ cho trẻ tuổi mầm non có một ý nghĩa đặc biệt quan trong. Ngôn ngữ của trẻ phát triển tốt sẽ giúp trẻ nhận thức và giao tiếp tốt góp phần quan trọng vào việc hình thành và phát triển nhân cách cho trẻ. Việc phát triển ngôn ngữ mạch lạc cho trẻ trong giao tiếp sẽ giúp trẻ dễ dàng tiếp cận với các môn khoa học khác như: Môi trường xung quanh, làm quen với toán, âm nhạc, tạo hình. mà điều tôi muốn nói ở dây đặc biệt là thông qua bộ môn làm quen văn học. Bộ môn làm quen văn học dạy trẻ đọcthơ. kể chuyện, đóng kịch tạo cho trẻ được hoạt động nhiều. Việc phát triển vốn từ luyện phát âm và dạy trẻ nói đúng ngữ pháp không thể tách rời giữa các môn học cũng như các hoạt động của trẻ. Mỗi từ cung cấp cho trẻ phải dựa trên một biểu tượng cụ thể, có nghĩa, gắn liền với âm thanh và tình huống sử dụng chúng. Nội dung vốn từ cung cấp cho trẻ cũng như hình thức ngữ pháp phải phụ thuộc vào khả năng tiếp xúc, hoạt động và nhận thức của trẻ.

 

doc 13 trang Người đăng phuongtranhp Lượt xem 521Lượt tải 0 Download
Bạn đang xem tài liệu "Giúp trẻ phát triển ngôn ngữ thông qua văn học ( truyện kể )", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
GIÚP TRẺ PHÁT TRIỂN NGÔN NGỮ 
THÔNG QUA VĂN HỌC ( TRUYỆN KỂ )
 I. MỞ ĐẦU 
Chưa làm mẹ nhưng chứa chang tình mẹ
Bởi yêu nghề nên quý trẻ măng non
Dạy tiếng mẹ đẻ cho trẻ tuổi mầm non có một ý nghĩa đặc biệt quan trong. Ngôn ngữ của trẻ phát triển tốt sẽ giúp trẻ nhận thức và giao tiếp tốt góp phần quan trọng vào việc hình thành và phát triển nhân cách cho trẻ. Việc phát triển ngôn ngữ mạch lạc cho trẻ trong giao tiếp sẽ giúp trẻ dễ dàng tiếp cận với các môn khoa học khác như: Môi trường xung quanh, làm quen với toán, âm nhạc, tạo hình... mà điều tôi muốn nói ở dây đặc biệt là thông qua bộ môn làm quen văn học. Bộ môn làm quen văn học dạy trẻ đọcthơ. kể chuyện, đóng kịch tạo cho trẻ được hoạt động nhiều. Việc phát triển vốn từ luyện phát âm và dạy trẻ nói đúng ngữ pháp không thể tách rời giữa các môn học cũng như các hoạt động của trẻ. Mỗi từ cung cấp cho trẻ phải dựa trên một biểu tượng cụ thể, có nghĩa, gắn liền với âm thanh và tình huống sử dụng chúng. Nội dung vốn từ cung cấp cho trẻ cũng như hình thức ngữ pháp phải phụ thuộc vào khả năng tiếp xúc, hoạt động và nhận thức của trẻ.
Phát triển ngôn ngữ cho trẻ là một nhiệm vụ quan trọng trong công tác giáo dục toàn diện cho trẻ. Công tác phát triển ngôn ngữ cho trẻ đã được nhà giáo dục mầm non Liên Xô nổi tiếng: Eiti- Khêva xem là khâu chủ yếu nhất của việc hoạt động trong trường mầm non, là tiền đề thành công của các công tác khác.
Hiện nay việc trẻ em của chúng ta nói trỏng, không đủ câu, trọn nghĩa chiếm một số lượng không nhỏ và rất khó cho việc tiếp cận với các tác phẩm văn học bởi vì trẻ một phần nghèo nàn về vốn từ, một phần trẻ không biết phải diễn đạt sao cho mạch lạc. Vì vậy tôi chọn đề tài “ Phát triển ngôn ngữ mạch lạc cho trẻ thông qua bộ môn làm quen văn học thể loại truyện kể” làm đề tài để nghiên cứu.
Phát triển ngôn ngữ mạch lạc cho trẻ là phát triển khả năng nghe, hiểu ngôn ngữ, khả năng trình bày có logic, có trình tự, chính xác và có hình ảnh một nội dung nhất định.
 II. NỘI DUNG
	1. Cơ sở Lý luận của vấn đề.
Để luyện cho lời nói của trẻ được mạch lạc cần giúp trẻ thực hiện những yêu cầu sau:
* Lựa chọn nội dung nói:
 - Xác định nội dung cần nói giúp cho lời nói của trẻ có nội dung thông báo ngăn gọn, rõ ràng. Xác định sự việc chính trong nhiều sự việc, xác định đặc điểm nổi bật, cơ bản trong nhiều đọ¨c điểm của con vật, của cây, của bức tranh, nội dung chính trong phát triển văn học.
Ví dụ: Đồ vật: Tả hình dáng bên ngoài, công dụng, cách sử dụng.
 - Con vật: Hình dáng, hành động.
 - Cây: Hình dáng bên ngoài, sự thay đổi theo mùa.
 - Sắp xếp nội dung đã lựa chọn giúp cho lời nói của trẻ được đầy đủ, hợp lý, có logic.
Ví dụ: Từ đầu đến chân, từ ngoài vào trong, từ trên xuống dưới, từ trái sang phải...
 - Trẻ tuổi mẫu giáo chưa có khả năng lựa chọn nội dung diễn đạt vì vậy cần phải hướng dẫn để giúp trẻ.
* Lựa chọn từ: 
Sau khi đã lực chọn nội dung trẻ cần lựa chọn từ để diễn tả chính xác nội dung mình cần thông báo. Chọn từ giúp cho lời nói của trẻ rõ ràng, chính xác và mang sắc thái biểu cảm. Việc chọn từ được đặt ra ở 2 mức độ.
 - Mức thứ nhất: Chọn từ phù hợp với nội dung. Ví dụ: Đi chạy...
 - Mức thứ 2: Chọn từ mang sắc thái tu từ: Ví dụ: Lật đật, lon ton, lom khom Đây là một việc khó đối với trẻ, giáo viên cần hướng dẫn và làm mẫu cho trẻ bắt chước, đặc biệt là việc chọn từ mang sắc thái tu từ chủ yếu được dùng thông qua việc cho trẻ làm quen với các tác phẩm văn học.
 Ví dụ: Câu chuyện: Cây khế. Chim phượng hoàng chở người anh đi lấy vàng,vừa đến nơi người anh đã vội vàng nhét đầy túi 6 gang. Cô cho trẻ làm quen từ “ vội vàng” bằng cách giải thích từ khó, cho trẻ lặp lại, thể hiện bằng hành động, hướng dẫn cháu đặt câu.
* Sắp xếp cấu trúc lời nói:
 - Sự liên kết các câu nói lại với nhau tạo thành chuỗi lời nói nhằm diễn tả trọn vẹn một ý, một nội dung nào đó để giúp người nghe hiểu được. Đây là sự sản xuất toàn bộ nội dung thông báo một cách có logic.
 - Để diễn tả một ý, một nội dung ngắn gọn nào đó thì việc sắp xếp cấu trúc lời nói là đơn giản đối với trẻ. Nhưng nếu yêu cầu trẻ kể lại truyện hay tự sáng tác miêu tả những hiện tượng sự kiện xảy ra trong đời sống thì trẻ gặp khó khăn cần phải luyện tập dần dần.
* Diễn đạt nội dung nói:
 - Khi trẻ diễn đạt phải ngừng nghỉ ngắt giọng đúng, để giọng nói của trẻ không ê a ậm ừ. Luyện cho trẻ tác phong khi nói thoải mái, tự nhiên, khi nói nhìn vào mặt người nói.
 - Trong trường mầm non tôi muốn đề cập tới việc luyện cho trẻ ngôn ngữ mạch lạc thể hiện qua việc thực hiện hai nhiệm vụ dạy trẻ đối thoại giữa trò chơi và độc thoại qua bộ môn làm quen văn học thể loại truyện kể.
 - Nhiệm vụ phát triển ngôn ngữ mạch lạc được thực hiện ở mọi lúc mọi nơi trong sinh hoạt hằng ngày của trẻ. Đối với trẻ lớp tôi đang phụ trách 5-6 tuổi: Tiếp tục dạy trẻ biết nghe, hiểu, trả lời câu hỏi của người lớn. Biết trò chuyện với những người xung quanh. Dạy trẻ kể chuyện về đồ chơi, đồ vật theo tranh, kể lại các tác phẩm văn học, kể có trình tự, diễn cảm.
Ê2. Thực trạng của vấn đề nghiên cứu.
 - Tôi là giáo viên phụ trách lớp lá gồm 30 cháu. Trong số này có 15 cháu đã học qua lớp chồi, còn 15 cháu chưa được học qua trường lớp mẫu giáo.
 * Thuận lợi:
 - Được sự quan tâm giúp đỡ của ban giám hiệu về chuyên môn xây dựng phương pháp đổi mới hình thức tổ chức hoạt động giáo dục mầm non, tạo mọi điều kiện giúp tôi thực hiện tốt chương trình đổi mới.
 - Phụ huynh quan tâm đến con em mình, nhiệt tình ủng hộ cùng tôi trong việc dạy dỗ các cháu và thường xuyên ủng hộ những nguyên vật liệu để làm đồ dùng dạy học và vui chơi cho các cháu.
 * Khó khăn:
 - Đa số phụ huynh bận công việc hoặc một lí do khách quan nào đó ít có thời gian trò chuyện với trẻ và nghe trẻ nói. Trẻ được đáp ứng quá đầy đủ về nhu cầu mà trẻ cần. Ví dụ: Trẻ chỉ cần nhìn vào đồ dùng, đồ vật nào là được đáp ứng ngay mà không cần phải dùng lời để yêu cầu hoặc xin phép. Đây cũng là một trong những nguyên nhân của việc chậm phát triển ngôn ngữ.
 * Thực trạng về mặt hạn chế của trẻ.
 - Do trình độ nhận thức không đồng đều, gần 50% trẻ lớp tôi mới lần đầu đến trường, số trẻ nam nhiều hơn trẻ nữ, do đó gặp rất nhiều khó khăn.
 - Hơn 50% trẻ chưa phân biệt được sự khác nhau trong cách phát âm mà chỉ tiếp nhận một cách chung chung.
 Ví dụ: Tay- Tai, con muỗi- con mũi, một bầy tang tình con nít- một bầy tang tình con lit.
 - 45% khả năng chú ý của trẻ còn yếu, không đều, không ổn định, cho nên trẻ chưa chú ý đều đến các thành phần trong câu, trong từ. Vì vậy những âm điệu được đọc lượt, những từ không nhấn mạnh trong câu trẻ dễ bỏ qua không chú ý,
 - Trí nhớ của trẻ còn hạn chế nên trẻ chưa biết hết khối lượng các âm tiếp thu, cũng như trật tự các từ trong câu. Vì thế trẻ bỏ bớt từ, bớt âm khi nói.
 - 70% kinh nghiệm sống của trẻ còn nghèo nàn, nhận thức hạn chế dẫn đến tình trạng trẻ dùng từ không chính xác, câu lủng củng.
 - 35% trẻ nói, phát âm sai do ảnh hưởng ngôn ngữ của người lớn xung quanh trẻ( nói tiếng địa phương)
Với những khó khăn như thế tôi phải dần dần khắc phục, sửa đổi và hướng dẫn trẻ phát triển ngôn ngữ một cách đúng đắn qua giao tiếp và tập cho trẻ làm quen văn học thể loại truyện kể.
3.	Các biện pháp để thay đổi thực trạng
* Đặc điểm phát âm.
 - Nói chung trẻ đã phát âm tốt hơn, rõ, ít ê a, ậm ừ. Trẻ vẫn còn phát âm sai những âm tranh khó hoặc những tử có 2- 3 âm tiết như: Lựu- lịu, hươu- hiu, mướp- mớp, chiêm chiếp- chim chíp, thuyền buồm- thiền bờm, rắn- dắn... Tuy nhiên lỗi sai đã ít hơn.
* Đặc điểm vốn từ:
 -Vốn từ của trẻ tăng nhanh khoảng 1300- 2000 từ. danh từ và động từ ở trẻ vẵn chiềm ưu thế. Tính từ và các loại từ khác trẻ đã sử dụng nhiều hơn.
 - Trẻ đã sử dụng chính xác các từ chỉ tính chất không gian như: Cao thấp, dài ngắn, rộng hẹp. Các từ chỉ tốc độ như: Nhanh, chậm. Màu: Đỏ, vàng, xanh, trắng, đen. Ngoài ra các từ có khái niệm tương đối như: Hôm nay, hôm qua, ngày mai trẻ dùng còn chưa chính xác. Một số trẻ còn biết sử dụng các từ chỉ màu sắc như: Xám, xanh lá cây, tím, da cam. 100% trẻ biết sử dụng các từ cao, thấp, dài ngắn, dài, rộng, hẹp. Có 55% số trẻ đếm được từ 1- 10. Tuy nhiên trẻ sử dụng một số từ còn chưa chính xác. Ví dụ: Mẹ có mót ngồi không?( muốn)
Đặc điểm ngữ pháp: 
	-	Câu trẻ dùng đã chính xác và dài hơn. Ví dụ: Cô ơi, con thấy có mấy cọng rác né. Con đem bỏ thùng rác cô nhé!( Cháu Nhật Đăng)
	-	Trẻ đã sử dụng các loại câu phức khác nhau. Ví dụ: Câu phức đẳng lập: Tích chu đi chơi. Tích chu không lấy nước cho bà.( Cháu Phước). Câu phức chính phụ: Cháu thích chơi lắp ráp nhà thôi , được nhà đẹp thì bạn Phương lại gỡ ra rồi.( Cháu Quang).
	-	Trẻ ít sử dụng câu cụt hơn. Tuy nhiên trong một so ...  kịch: 
- Tổ chức cho trẻ chơi đóng kịch là một phương pháp tốt để phát triển ngôn ngữ đối thoại cho trẻ. Nội dung kịch được chuyển thể từ tác phẩm văn học mà trẻ đã được làm quen. Trẻ làm quen với các mẫu câu văn học đã được gọt giũa chọn lọc. Khi đóng trẻ cố gắng thể hiện đúng ngữ điệu, tính cách nhân vật mà trẻ đóng, giúp cho ngôn ngữ của trẻ mang sắc thái biểu cảm rõ rệt.
Ví dụ: Chủ đề: Gia đình, câu chuyện: Tích chu
	Cháu Quốc Tuấn đóng vai Tích Chu ( lúc đầu ham chơi, thái độ không vâng lời), sau biết lỗi ( tỏ thái độ biết nhận lỗi, giọng trầm): Bà ơi, bà ở đâu, bà ở lại với cháu. Cháu sẽ mang nước cho bà, bà ơi!
	Cháu Cẩm Tú đóng vai bà ( giọng run run, dứt khoát): Bà đi đây! Bà không về nữa đâu!
	Cháu Phương Anh đóng vai Bà Tiên ( tính cách hay giúp đỡ mọi người, giọng dịu dàng, nhỏ nhẹ): Nếu cháu muốn bà cháu trở lại thành người thì cháu phải đi lấy nước suối tiên cho bà cháu uống, đường lên suối tiên xa lắm, cháu có đi được không?
b. Ở các hoạt động khác dạy trẻ kể lại những sự vật hiện tượng trẻ quan sát được:
• Hoạt động ngoài trời:
	Dạy trẻ kể về những hiện tượng, sự kiện trong cuộc sống hằng ngày, những điều trẻ đã biết, tượng tượng...Trẻ phải tự chọn nội dung, hình thức ngôn ngữ sắp xếp chúng theo một trật tự nhất định.
- Tôi chủ yếu tập cho trẻ kể theo hai dạng: Kể chuyện miêu tả, kể chuyện theo chủ đề.
* Kể chuyện miêu tả: Tôi dạy trẻ nêu tên, đặc điểm theo thứ tự khảo sát, tính liên hệ, kết thúc nêu ý nghĩa hoặc hành động. 
Ví dụ: Miêu tả hiện tượng thời tiết: Trời âm u, mây đen, gió thổi mạnh trời sắp mưa.
* Kể chuyện theo chủ đề: Tôi chủ yếu rèn cho trẻ truyền đạt lại những sự kiện xảy ra trong một thời gian nhất định của nhân vật nào đó. 
Ví dụ: Truyện: Dê con nhanh trí: Con cáo giả làm dê mẹ lúc dê đi vắng, nó giả giọng dê mẹ, nó nhúng chân vào bột cho chân trắng giống dê mẹ. Nhưng cáo vẫn bị dê con phát hiện ra và đuổi cáo đi.
• Hoạt động góc: 
* Dạy trẻ kể chuyện theo tri giác: Không những phát triển ở trẻ ngôn ngữ độc thoại, nên cho trẻ nói đúng ngữ pháp, tư thế tác phong khi nói mà còn góp phần phát triển tốt các cơ quan cảm giác của trẻ. Bởi vì trẻ có quan sát tốt mới kể miêu tả được chính xác.
- Mục đích: Phát triển ngôn ngữ mạch lạc cho trẻ, phát triển tư duy logic, khả năng quan sát. Tôi tập trung dạy cho trẻ kể chuyện tri giác theo 3 loại: Kể về đồ chơi, kể về vật thật, kể chuyện theo tranh.
- Chuẩn bị: 
+ Chọn đồ chơi: Đồ chơi đẹp, màu sắc rõ ràng tươi sáng, hấp dẫn về hình thức để làm cho trẻ thích thú, rung động khi kể.
+ Chọn vật thật: Có thể là đồ dùng hằng ngày: Gương, lược, khăn, ly, chén, váy áo, tàu xe, xe máy, túi sách, nón...Những công cụ lao động: Cuốc, xẻng, máy giặt...Súc vật nuôi trong nhà: Mèo, chó, gà...Cây trồng, hoa, thiên nhiên, phong cảnh...cho trẻ kể về những đồ vật từ đơn giản đến phức tạp.
+ Chọn tranh: Nên chọn tranh có màu sắc tươi sáng, bố cục rõ ràng, không có quá nhiều chi tiết rườm rà. Có thể là tranh đơn hoặc tranh liên hoàn.
- 	Tổ chức cho trẻ làm quen với tranh hoặc vật thật trước một vài hôm để trẻ quan sát, xác định màu sắc, đặc điểm, cách chơi, cách sử dụng.
- 	Thời gian đầu trẻ kể theo mẫu của cô. Sau đó có thể là trẻ yếu kể theo mẫu của cô. Để tập cho trẻ kể, cô có thể cầm con rối để kể từng câu một. Sau đó đặt câu hỏi để trẻ kể về con rối của trẻ.
Ví dụ: Búp bê của cô là người anh nhé, còn của con là gì?
Người anh có nhà to, nhiều trâu bò, ruộng vườn. Còn người em có gì nhỉ ?
Khi trẻ kể thạo, trẻ tự kể mà không cần mẫu của cô.
-	 Khi trẻ kể tôi thường nhắc trẻ: Trẻ phải đứng quay mặt về phía các bạn. Giọng kể rõ ràng, tốc độ hợp lí, tư thế tự nhiên thoải mái. Khi trẻ kể tác phong không đúng, trẻ kể sai, phát âm ngọng...cô nên để trẻ kể xong rồi mới sửa, nhận xét nhưng không nên dừng lại quá lâu. Nếu trẻ quên hoặc không nói, cô đặt câu hỏi gợi ý giúp trẻ. Sau khi trẻ kể, cô nhận xét đánh giá truyện kể của từng trẻ ngay, không nên để đến cuối giờ học.
* Dạy trẻ kể chuyện theo trí nhớ:
- Mục đích: Phát triển ngôn ngữ mạch lạc, ghi rõ mẫu câu cần luyện.
- Chọn đề tài phù hợp với nhận thức và kinh nghiệm của trẻ. Để trẻ ghi nhớ một cách có chủ đích chuẩn bị kể được tốt, tôi thường giao nhiệm vụ trước cho trẻ.
	Ví dụ: Ngày mai là ngày cuối tuần, các con ở nhà làm gì? Các con chú ý nhớ những việc đã làm hoặc được đi chơi thế nào để kể lại cho cô nhé.
	Trước tiên tôi chọn những đề tài chung ( hoạt động mà cả lớp cùng tham gia) khi trẻ đã quen với cách kể, cô cho trẻ kể theo kinh nghiệm của trẻ.
* Dạy trẻ kể chuyện sáng tạo:
- Yêu cầu: Truyện kể mạch lạc, logic, các câu nói đúng ngữ pháp, thể hiện rõ ngôn ngữ đàm thoại hay độc thoại trong khi kể.
Các dạng kể chuyện sáng tạo: Kể nốt truyện, kể theo đề tài và dàn ý cho trước, kể theo chủ đề tự chọn, kể theo mô hình.
- Chuẩn bị: Cô kể một đoạn truyện rồi yêu cầu trẻ suy nghĩ kết thúc câu chuyện ( giao nhiệm vụ). Cô cho trẻ xem mô hình trước một ngày, đàm thoại gợi ý. Gợi ý trước đề tài để trẻ tự suy nghĩ.
- Tổ chức sinh động để phát huy trí tưởng tượng của trẻ, giúp trẻ xây dựng câu chuyện một cách hoàn chỉnh theo ý của từng cá nhân.
- Một số cháu đã kể chuyện được khi sử dụng mô hình, sách tranh, con rối, tranh ảnh sưu tầm...Sau mỗi lần kể tôi chú ý nhận xét kĩ lời kể của trẻ và tạo mọi cơ hội cho trẻ được kể chuyện sáng tạo.
c. Thông qua tuyên truyền với phụ huynh:
	Tuyên truyền dưới nhiều hình thức:
- Bảng tuyên truyền đẹp, thay đổi nội dung hình ảnh phù hợp với chủ đề.
Ví dụ: Chủ đề: Thế giới thực vật- Tết nguyên đán: Bảng tuyên truyền nên có hình ảnh phù hợp, những bài thơ, câu chuyện, bài hát, đồng dao...có phần giao lưu giữa lớp và phụ huynh.
- Tuyên truyền phát thanh: Bài phát thanh có nội dung theo chủ đề, những câu chuyện hấp dẫn lôi cuốn. Phát thanh vào giờ đón, trả trẻ để phụ huynh và cháu được nghe.
- Tuyên truyền qua các góc chơi đặc biệt qua góc học tập sách: Có kệ để sách, treo tranh, hình ảnh xinh xắn...thay đổi thường xuyên để lôi cuốn trẻ.
- Giáo viên tích cực giao lưu với phụ huynh vào giờ đón, trả trẻ: Động viên phụ huynh dành thời gian kể chuyện, đọc chuyện cho cháu nghe trước khi đi ngủ, lắng nghe trò chuyện với con giúp con phát triển ngôn ngữ mạch lạc. Từ đó nhận ra sự phát triển ngôn ngữ, tình cảm của trẻ như thế nào theo từng tháng. Vận động phụ huynh đóng góp đồ dùng học tập phù hợp với chủ đề.
d. 	Kết quả: 
	Qua một số biện pháp hữu ích tôi thấy đạt được kết quả như sau:
- 95% vốn từ của trẻ phát triển rõ rệt. Trẻ nói rõ ràng mạch lạc hơn, nói nhiều câu có nghĩa đầy đủ. Trẻ đã phân biệt được ý nghĩa của một số từ.
- 85% kinh nghiệm sống của trẻ đã phong phú hẳn lên, trẻ hứng thú tham gia học, phát biểu, kể chuyện và đóng kịch.
- 80% đối với trẻ mới yếu chậm đã mạnh dạn tham gia vào các hoạt động: Đóng kịch, kể chuyện.
- 85% trẻ biết kể chuyện sáng tạo và phát huy khả năng tưởng tượng tốt.
- 85% trẻ kể chuyện theo trí nhớ tốt.
- 90% trẻ tham gia đóng kịch thể hiện tốt vai diễn.
- 90% trẻ đã phát âm chính xác hơn, ít sử dụng ngôn ngữ địa phương.
- 100% phụ huynh ủng hộ cho trẻ mang thêm đồ dùng, đồ chơi, tranh ảnh, sách báo sưu tầm, truyện tranh phù hợp với chủ đề, góp phần phát triển ngôn ngữ mạch lạc cho trẻ, trẻ hứng thú hơn khi học môn làm quen văn học thể loại truyện kể.
* Bài học kinh nghiệm.
	Từ những kết quả trên tôi rút ra bài học kinh nghiệm khi dạy trẻ phát triển ngôn ngữ mạch lạc qua bộ môn làm quen văn học thể loại truyện kể.
- Giáo viên cần nâng cao trình độ ngôn ngữ của chính bản thân mình, coi ngôn ngữ là một phương tiện giáo dục chủ đạo
- Giáo viên phải thực sự yêu trẻ và nhẫn nại.
- Sưu tầm tranh ảnh có nội dung phù hợp, trao đổi kiến thức tự học qua sách báo, internet, qua giáo viên đồng nghiệp.
- Phối hợp với phụ huynh để động viên giáo dục trẻ thực hiện tốt yêu cầu cần đạt của giáo viên.
III. 	KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ \
1. Kết luận.
	Luyện cho trẻ nói mạch lạc thông qua bộ môn làm quen văn học thể loại truyện kể là sự tổng hợp tòan bộ nội dung rèn luyện ngôn ngữ. Nói mạch lạc chứng tỏ ngôn ngữ của trẻ đã đạt yêu cầu cao về mặt biểu hiện âm thanh, từ diễn đạt, câu đúng ngữ pháp cũng như sự mạnh dạn tự tin trong giao tiếp. Đề tài nghiên cứu này sẽ làm cơ sở vững chắc cho việc học tập của trẻ những năm tiếp theo.
2. Kiến nghị.
	- Phòng Giáo Dục, trường tạo điều kiện thuận lợi cho giáo viên tham gia dự giờ, giao lưu với các trường bạn, nhằm học hỏi trao đổi nâng cao tay nghề của cá nhân cũng như của tập thể cộng đồng giáo dục huyện nhà.
	- Phòng Giáo dục cần tạo điều kiện tốt hơn về trang thiết bị, đồ dùng dạy học cho trường
PHÒNG GIÁO DỤC BAN GIÁM HIỆU Ngày 16 tháng 01 năm 2010
	 HIỆU TRƯỞNG Người viết sáng kiến
	 NGUYỄN KIM LIÊN

Tài liệu đính kèm:

  • docgiup_tre_phat_trien_ngon_ngu_thong_qua_van_hoc_truyen_ke.doc