Một số giải pháp giúp học sinh lớp hai học tốt các yếu tố hình học - Hồ Thị Hòe

Một số giải pháp giúp học sinh lớp hai học tốt các yếu tố hình học - Hồ Thị Hòe

A . PHẦN MỞ ĐẦU.

I. Cơ sở lí luận :

 Môn toán là một trong những môn học có vị trí quan trọng ở bậc tiểu học. Trong những năm gần đây, xu thế chung của cả nước là đổi mới phương pháp dạy học nhằm phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động sáng tạo trong quá trình dạy học. Một trong những bộ phận cấu thành môn toán Tiểu học mang ý nghĩa chuẩn bị cho việc học ở các cấp học trên, đồng thời giúp học sinh những hiểu biết cần thiết khi tiếp xúc với những “ tình huống toán học” trong cuộc sống hằng ngày.

 

doc 19 trang Người đăng phuongtranhp Lượt xem 680Lượt tải 1 Download
Bạn đang xem tài liệu "Một số giải pháp giúp học sinh lớp hai học tốt các yếu tố hình học - Hồ Thị Hòe", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
 PHÒNG GIÁO DỤC – ĐÀO TẠO THỊ XÃ BẢO LỘC.
 TRƯỜNG TIẾU HỌC NGUYỄN KHUYẾN.
 & 
MỘT SỐ GIẢI PHÁP 
GIÚP HỌC SINH LỚP HAI HỌC TỐT CÁC YẾU TỐ HÌNH HỌC.
 NGƯỜI VIẾT: Hồ Thị Hịe
 Chủ nhiệm: lớp 2A1
 Năm học: 2011 - 2012
 CẤU TRÚC ĐỀ TÀI	
A: MỞ ĐẦU
 I/ Cơ sở lí luận.
B. NỘI DUNG
 I/ Lý do chọn đề tài
II/ Thực trạng.
III/ Giải pháp
IV/ Tổ chức thực hiện
C . KẾT QUẢ
V/ Bài học kinh nghiệm
VI/ Kết luận
	A . PHẦN MỞ ĐẦU.
I. Cơ sở lí luận :
 Môn toán là một trong những môn học có vị trí quan trọng ở bậc tiểu học. Trong những năm gần đây, xu thế chung của cả nước là đổi mới phương pháp dạy học nhằm phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động sáng tạo trong quá trình dạy học. Một trong những bộ phận cấu thành môn toán Tiểu học mang ý nghĩa chuẩn bị cho việc học ở các cấp học trên, đồng thời giúp học sinh những hiểu biết cần thiết khi tiếp xúc với những “ tình huống toán học” trong cuộc sống hằng ngày.
 Ởû lớp 2 tôi nhận thấy việc dạy các yếu tố hình học trong chương trình toán ở bậc tiểu học nói chung và ở lớp 2 nói riêng là hết sức cần thiết. Ở lứa tuổi học sinh tiểu học còn hạn chế về mặt suy luận, phân tích . Việc dạy “ Các yếu tố hình học” ở tiểu học giúp học sinh phát triển được năng lực tư duy, khả năng quan sát, trí tưởng tượng cao và kĩ năng thực hành hình học đạt nền móng vững chắc cho các em học tốt hình học sau này ở các cấp học phổ thông cơ sở.
 Việc dạy các yếu tố hình học lớp 2 như thế nào để đạt được hiệu quả cao nhất, phát huy được tính chủ động tích cực của học sinh phù hợp với yêu cầu đổi mới của phương pháp dạy học đó là nội dung tôi muốn đề cập trong đề tài.
	B.NỘI DUNG
I. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI.
 Trong những năm gần đây, phong trào đổi mới phương pháp dạy học trong nhà trường tiểu học được quan tâm và đẩy mạnh không ngừng để ngay từ cấp tiểu học, mỗi học sinh đều cần và có thể đạt được trình độ học vấn toàn diện, đồng thời phát triển được khả năng của mình về một môn nào đó nhằm chuẩn bị ngay từ bậc tiểu học những con người chủ động, sáng tạo đáp ứng được mục tiêu chung của cấp học và phù hợp với yêu cầu phát triển chung của đất nước.
 Dạy môn toán ở bậc tiểu học vừa phải đảm bảo hệ thống chính xác của toán học vừa phải đảm bảo tính vừa sức của học sinh. Kết hợp với yêu cầu đó, đòi hỏi tính khoa học và nhận thức tốt về tất cả các nội dung lẫn phương pháp. 
	Trong chương trình dạy toán 2 các yếu tố hình học được đề cập đến những hình thức hoạt động học như : nhận dạng và gọi đúng tên hình chữ nhật, đường thẳng, biết tính độ dài đường gấp khúc, tính chu vi hình tam giác, hình tứ giác, biết thực hành vẽ hình.	
 Một trong những nhiệm vụ cơ bản dạy học các yếu tố hình học ở lớp 2 là cung cấp cho học sinh những biểu tượng hình học đơn giản, bước đầu làm quen với thao tác lựa chọn, phân tích, tổng hợp hình, phát triển tư duy, trí tưởng tượng không gian. Nội dung các yếu tố hình học không nhiều, các quan hệ hình học ít, có lẽ vì phạm vi kiến thức các yếu tố hình học như vậy đã làm cho việc nghiên cứu nội dung dạy học ngày càng hứng thú.
 Ngoài ra, tôi còn chú ý học hỏi dự giờ đồng nghiệp trong và ngoài trường để vận dụng sáng tạo làm sao cho phù hợp ngày càng có hiệu quả. Sau đây tôi xin trình bày biện pháp mà tôi để tâm suy nghĩ thực hiện trong năm học này.
II . THỰC TRẠNG.
1. THUẬN LỢI:
 Được sự quan tâm của phòng giáo dục cũng như ban giám hiệu nhà trường nên điều kiện dạy và học lớp tôi tương đối tốt.
 Sĩ số lớp tôi phụ trách không quá đông.
 Đa số phụ huynh quan tâm đến việc học của các em. 
 Đa số học sinh ngoan có ý thức học tập. 
2. KHÓ KHĂN.
 Sĩ số học sinh của lớp tôi không quá đông nhưng trình độ của học sinh không đồng đều, có nhiều em học còn yếu, còn nhút nhát dẫn đến việc tiếp thu bài của các em cũng chưa đạt hiệu quả.
 Một số phụ huynh còn chưa quan tâm, động viên và nhắc nhở các em học và chuẩn bị ở nhà.
 Đồ dùng dạy học cho môn toán nhất là phần hình học còn hạn chế để phục vụ cho tiết dạy. 
 Với những khó khăn trên qua thống kê chất lượng đầu năm của lớp tôi như sau:
sĩ số
Học sinh giỏi
Học sinh khá
Học sinh trung bình
Học sinh yếu
20
3. NGUYÊN NHÂN.
 Do giáo viên chưa quan tâm đến việc rèn kỹ năng nhận biết hình và thực hành vẽ hình của học sinh.
 Do các em chưa được sự quan tâm giúp đỡ, kèm cặp thường xuyên của gia đình.
	III. GIẢI PHÁP 
Kết hợp giữa nhà trường và gia đình rèn học yếu tố hình học cho các em giáo viên cần chú ý đến một số điểm sau:
1. ĐỐI VỚI GIÁO VIÊN:
- Phải nghiên cứu chương trình sách giáo khoa, tài liệu dạy học và tìm hiểu trình độ đặc điểm của học sinh.
- Nắm được mục tiêu, nội dung giờ học tiết toán
- Nắm vững phương pháp dạy hình học
 Nội dung về các yếu tố hình học lớp 2 phong phú, đa dạng, được giới thiệu đầy đủ về đường thẳng, ba điểm thẳng hàng.
 Đường giấp khúc.
 Tính độ dài đường giấp khúc.
 Giới thiệu hình tứ giác, hình chữ nhật. Vẽ hình trên giấy ô vuông.
 Giới thiệu khái niệm ban đầu về chu vi của hình học.
 Cấu trúc, nội dung các yếu tố hình học trong sách giáo khoa toán 2 được sắp xếp đan xen với các mạch kiến thức khác, phù hợp với sự phát triển theo từng giai đoạn học tập của học sinh.
 Nội dung các yếu tố hình học trong sách giáo khoa thể hiện mức độ yêu cầu kiến thức kỹ năng cơ bản sau:
 Học sinh biết nhận biết dạng và gọi đúng tên hình chữ nhật, hình tứ giác, đường thẳng, đường giấp khúc ở dạng tổng thể, chưa yêu cầu nhận ra quan hệ hình chữ nhật cũng chính là hình tứ giác, hình vuông cũng là hình chữ nhật hoặc đi sâu vào các đặc điểm yếu tố của một hình.
 Biết thực hành vẽ hình ( Theo mẫu) trên giấy ô vuông, xếp, ghép các hình đơn giản.
 Học sinh bước đầu làm quen với các thao tác lựa chọn, phân tích, tổng hợp hình, phát triển tư duy, trí tưởng tượng không gian. 
2.ĐỐI VỚI HỌC SINH.
	-Chuẩn bị đồ dùng dụng cụ học tập đầy đủ, nhất là sách Toán lớp 2.
-Chuẩn bị ở nhà, tập nhận dạng các hình qua các vật dụng, đồ dùng có trong nhà.
- Thực hiện nề nếp ngồi học trên lớp, cách để sách trước mặt, khoảng cách từ sách đến mắt là 25cm đến 30cm. Khi đọc đề bài toán phải cầm sách bằng hai tay.
3. ĐỐI VỚI PHỤ HUYNH.
	Qua viêc họp và liên lạc với phụ huynh giúp học sinh nhận thức và xác định được việc học toán nói chung và học hình học nói riêng là cần thiết. Giúp học sinh học tốt các yếu tố hình học lớp 2.
	Gia đình thường xuyên kiểm tra, khuuyến khích, động viên các em để khi ở nhà các em cũng tự giác học như khi học trên lớp.
	IV. TỔ CHỨC THỰC HIỆN.	
 Khi dạy các yếu tố hình học trong sách giáo khoa toán lớp 2 tôi đã bám sát trình độ chuẩn ( thể hiện các yêu cầu cơ bản về kiến thức và kỹ năng mà học sinh cần đạt được, phù hợp với mức độ ở lớp 2 như nhận dạng hình tổng thể, các bài thực hành, luyện tập đơn giản, bài tập xếp, ghép hình dễ thực hiện). Với hệ thống các bài tập đa dạng đã giây chú ý học tập cho học sinh.
 Ơû lớp 2, chưa yêu cầu học sinh nắm được các khái niệm, được những hình học dựa trên các đặc điểm quan hệ các yếu tố của hình ( Chẳng hạn chưa yêu cầu học sinh biết hình chữ nhật là hình tứ giác có 4 góc vuông hoặc có 2 cạnh đối diện bằng nhau). Chỉ yêu cầu học sinh nhận biết được hình ở dạng “ Tổng thể” phân biệt được hình này với hình khác và gọi đúng tên hình của nó. Bước đầu vẽ được hình đó bằng cách nối các điểm hoặc vẽ dựa trên các đường kẻ ô vuông ( Giấy kẻ ô ly,..).
 Một cách khác nữa, khi dạy thì tôi có thói quen đặt câu hỏi “ tại sao” và tự suy nghĩ để trả lời câu hỏi đó. Trong nhiều tình huống tôi còn có thể đặt câu hỏi “tại sao làm như vậy? Có cách nào khác không? Có cách nào hay hơn không?”. Các câu hỏi của tôi như “ tại sao”, “ vì sao” đã thôi thúc cho học sinh phải suy nghĩ tìm tòi giải thích. Đó là chỗ dựa để đưa cách làm hoặc cách giải sự lựa chọn trong vốn kiến thức đã học để trả lời.
 Khi dạy các yếu tố hình học cho học sinh lớp 2, việc tập cho học sinh có thói quen đặt ra câu hỏi “ tại sao” và tìm cách giải thích làm cho vấn đề được sáng tỏ là nhiệm vụ của người giáo viên. Từ thói quen trong suy nghĩ đã hình thành và rèn luyện thói quen trong diễn đạt, trong trình bày.
VD: Bài chu vi hình tam giác.
 Cho học sinh quan sát hình vẽ. Yêu cầu học sinh nhắc lại cách tính chu vi hình tam giác
	B
	4cm	4cm
 A	 4cm	C
 Học sinh có thể tính chu vi hình tam giác theo các cách sau:
	4+4+4=12(cm)
 Hoặc: 4 x3 =12(cm)
 Từ đó học sinh so sánh các kết quả khẳng định là làm đúng. 
 Lúc đó tôi hỏi : Tại sao con lại lấy 4x3 để tính chu vi hình tam giác (Vì 3 cạnh hình tam giác có số đo bằng nhau là 4cm). 
 Cho học sinh so sánh 2 cách làm trên con thấy cách nào làm nhanh hơn ?
( cách 2). 
 Từ đó giúp học sinh rút ra được khái niệm: Tổng độ dài các cạnh của hình tam giác là chu vi của hình tam giác đó. 
1/ Về nhận biết hình :
 * Trong sách giáo khoa toán 2 hệ thống các ... trong hình.
Tôi vẽ hình lên bảng và cho học sinh đặt tên cho hình sau đó lựa chọn cách vẽ và vẽ hình.
Cách 1: 	A B
 D C
Cách 2: 	A B	
	D C
- Tôi hỏi : Con vẽ thế nào? ( Con nối từ A đến C hoặc từ D đến B)
- Tôi cho học sinh đọc tên hình chữ nhật và hai hình tam giác theo hai cách mà học sinh lựa chọn để vẽ.
+ Hình chữ nhật ABCD.
 + Hai hình tam giác : ABC, ACD hoặc hai hình tam giác ABD, BDC.	
Cho học sinh đặt tên cho hình, sau đó tự kẻ hình vào bảng con
A B A B A B	
	E E E
 C D C D C D	
Tôi yêu cầu học sinh giơ bảng con, sau đó nêu cách vẽ và đặt tên các hình vẽ được trong cả các cách trên.
Học sinh nêu cách vẽ đoạn thẳng : Con kẻ từ B đến D ; con kẻ từ A đến D ; Con kẻ từ C đến B.
Học sinh đọc tên hình : Hình chữ nhật ABDC, hình tam giác BDE ; Hình chữ nhật ABDC, hình tam giác ACD ; Hình chữ nhật ABDC, hình tam giác ABC.
Khi dạy học sinh cách vẽ hoặc dựng hình tôi thường tuân thủ theo các bước sau :
+ Hướng dẫn học sinh biết cách sử dụng thước kẻ, bút chì ( bút lông), bút mực để vẽ hình. Cần sử dụng hợp lí chức năng của mỗi dụng cụ, thước thẳng có vạch chia để đo độ dài đoạn thẳng ( đường thẳng), thước thẳng còn dùng để kiểm tra sự thẳng hàng của các điểm.
+ Học sinh phải được hướng dẫn và luyện tập kĩ năng về hình, dựng hình theo quy trình hợp lí thể hiện được những đặc điểm của hình phải vẽ .
+ Hình vẽ phải rõ ràng, chuẩn xác về hình dạng và đặc điểm, các nét vẽ phải mảnh, không nhèo, không tẩy xoá.
*Về xếp, ghép hình. 
 Ví dụ : Bài 4 trang 155.
Xếp 4 hình tam giác thành hình cái thuyền.
Yêu cầu học sinh “ xếp, ghép hình” ở lớp 2 là: Từ 4 hình tam giác đã cho, học sinh ghép, xếp được hình mới theo yêu cầu đề bài ( chẳng hạn ở ví dụ trên là xếp thành “ hình cái thuyền”.
Cách thực hiện : Mỗi học sinh cần có một bộ hình tam giác để xếp hình ( Bô xếp này có trong hộp đồ dùng Toán lớp 2, hoặc học sinh có thể tự làmbằng cách từ một hình vuông cắt theo hai đường chéo để được 4 hình tam giác )
Học sinh lựa chọn vị trí thích hợp để xếp, ghép 4 hình tam giác thành hình mới chẳng hạn như hình cái truyền.
Loại toán “ xếp, ghép hình” chỉ có ý nghĩa khi mỗi học sinh phải được tự xếp, ghép hình ( các em có thể xếp, ghép nhanh chậm khác nhau ), nhưng kết quả đạt được là “sản phẩm” do mỗi em được “tự thiết kế và thi công” và do đó sẽ gây hứng thú học tập cho các em ).
Điều cơ bản là khuyến khích học sinh tìm được các cách khác nhau đó. Qua việc “xếp, ghép hình” này các em phát triển được tư duy, trí tưởng tượng không gian và sự khéo tay, kiên trì, sáng tạo.
*Về tính độ dài đường gấp khúc hoặc chu vi của hình.
- Tính độ dài đường gấp khúc.
Ví dụ: Bài 5 trang 105 :
3cm
3cm
2m
2m
2m
2m
2m
	 3cm
+ Tôi cho hs tìm cách giải bài toán 
	Độ dài đường gấp khúc là:	
	3 + 3 + 3 = 9 ( cm)
	Đáp số : 9 cm.
+Tôi hỏi: Con làm thế nào ra 9 cm ?
+ Học sinh : Đường gấp khúc này gồm 3 đoạn thẳng, mỗi đoạn thẳng đếu là 3 cm. Con lấy số đo các đoạn thẳng cộng lại với nhau .3 đoạn thẳng này chính là độ dài của đường gấp khúc.
+ Tôi hỏi : Có bạn nào làm khác không?
+ Học sinh : Con lấy 3 x 3 = 9 ( cm)
+ Từ hai cách làm trên tôi cho học sinh so sánh hai cách làm đó.
+ Theo con cách nào làm đúng? Cả hai cách đều đúng. 
Tính chu vi hình tam giác, hình tứ giác.
Yêu cầu học “ chu vi” ở lớp 2 phù hợp với trình độ chuẩn của Toán 2. Cụ thể là : Ở lờp 2, chưa yêu cầu học sinh nắm được “ khái niệm, biểu tượng” về chu vi của hình. Chỉ yêu cầu học sinh biết cách tính chu vi hình tam giác, hình tứ giác khi có sẵn độ dài mỗi cạnh của hình đó, bằng cách tính tổng độ dài các cạnh của hình ( độ dài các cạnh của hình đó có cùng một đơn vị đo, chưa yêu cầu khác đơn vị đo) Chẳng hạn:
+ Tính chu vi hình tam giác có độ dài ba cạnh là: 10cm, 20cm, 15cm.
	Bài giải:
	Chu vi hình tam giác là:
	10 + 20 +15 = 45 ( cm)
	Đáp số: 45 cm .
+ Tính chu vi hình tứ giác có độ dài 4 cạnh là: 9 cm, 5cm, 9cm, 5 cm.
 Bài giải:
 Chu vi hình tứ giác là:
 9 + 5 + 9 + 5 = 28 ( cm)
 Đáp số : 28 cm.
A
C
Hoặc một dạng bài nữa như bài 3 trang 130.
B
+ Tôi vẽ hình lên bảng hoặc tôi cho học sinh quan sát hình vẽ trong sách giáo khoa, rồi tôi cho học sinh đo các cạnh của hình tam giác ABC( dùng thước có vạch chia để đo độ dài của các cạnh của hình tam giác) . Sau đó tôi gọi học sinh đọc số đo các đoạn mà học sinh vừa đo được. Cuối cùng tôi cho học sinh tính chu vi hình tam giác đó.
Bài giải:
Chu vi hình tam giác ABC là:
3 + 3 + 3 = 9 ( cm)
Đáp số: 9 cm
Hoặc
3 x 3 = 9 ( cm)
+ So sánh hai cách làm trên con thấy cách nào nhanh hơn ? ( Cánh 2)
Một số bài tập phát triển tư duy.
 + Đếm hình:
Loại bài “đếm hình” trong sách giáo khoa Toán 2 là loại bài toán có tính chất phát triển, đòi hỏi học sinh biết “ phân tích, tổng hợp” hình. Do đó sẽ là “ khó” đối với học sinh chưa được làm quen hoặc chưa biết nên xuất phát từ đâu khi giải bài toán loại này. Từ đó tôi đã cho học sinh giải các bài tập phân tích, tổng hợp là: “ Đánh số từng hình riêng lẻ, rồi lần lượt ghép các hình riêng lẻ đó lại theo một trình tự để có thể đếm được tất cả các trường hợp”. Với học sinh kém tôi cho các em dùng đầu bút chì tô nhẹ lên các hình, hoặc dùng các mô hình có thể cắt rời dần dần lắp ráp lại, v,v để yểm trợ về mặt tư duy.
Ví dụ :Ta xem hình trên có bao nhiêu hình tam giác ? Đọc tên các hình tam giác đó
Tôi cho học sinh đánh số các hình “ riêng lẻ” là 1, 2, 3, 4.
Hình tam giác nào tạo bởi “1 hình có đánh số riêng lẻ” ?
( có 4 hình là hình 1, hình 2, hình 3 và hình 4)
1
2
3
4
Hình tam giác nào tạo bởi “ 2 hình riêng lẻ”?
{ hình( 2,3), hình( 4,1 )}
Hình tam giác nào tạo bởi “ 3 hình riêng lẻ” ?
( Không có)
Hình tam giác nào tạo bởi “ 4 hình riêng lẻ” ( đó là hình tam giác ABC)
Như vậy có tất cả là : 4 + 2 + 0 + 1 = 7 ( hình tam giác)
Ví dụ: Trong hình bên có mấy hình tứ giác ?
A
E
B
D
C
3
1
2
5
4
Đối với loại bài này tôi gợi ý cho học sinh cách đếm như sau:
Ghi tên và đánh số vào hình, như hình trên.
Hãy xem có hình nào tạo bởi “ 1 hình có đánh số riêng lẻ” ( không có)
Hình tứ giác nào tạo bởi “ 2 hình có đánh số riêng lẻ” ( Có 1 hình là hình ( 1, 2) hay là hình tứ giác ABIE)
 Hình tứ giácnào tạo bởi “ 3 hình có đánh số riêng lẻ “ ( có hai hình, hình
( 1,2,5)hay ( hình tứ giác ABCE) ; hình (1,2,3) hay hình ứ giác (ABDE).
 Hình tứ giác nào tạo bởi “ 4 hình có đánh số riêng lẻ” ( có một hình : hình (2, 3, 4, 5) hay là hình tứ giác BCDE ).
Như vậy ta có : 0 + 1 + 2 + 1 = 4 ( hình tứ giác)
Tuy nhiên ở lớp 2 chỉ yêu cầu học sinh đếm được số hình ( trả lời đúng số lượng hình cần đếm được ), chưa yêu cầu học sinh viết cách giải thích như trên.
* Bài tập: trắc nghiệm	
Ví dụ: Khoanh vào chữ đặt trước kết quả đúng :
Số hình tứ giác trong hình vẽ là :
1
2
3
4
- Tôi để cho học sinh tự làm bài .
Tôi cho học sinh nêu cách làm: Con đếm số hình tứ giác được 4 hình tứ giác, nên con khoanh vào chữ d.
C. KẾT QUẢ
Ở lớp 2 với những khó khăn đã nêu trong quá trình giảng dạy, tôi cũng gặp một số khó khăn . Nhưng với giải pháp trên tôi nhận thấy học sinh có nhiều tiến bộ. Với cách dạy và học trên học sinh chăm chú say mê học toán, các em không ngại khi giải các bài toán có nội dung hình học. Học sinh tích cực, chủ động tìm tòi, sáng tạo xây dựng kiến thức của bài học. Nhờ vậy mà học sinh nắm bài nhanh, nhớ kiến thức lâu hơn, chắc chắn là tự tin làm cho không khí tiết học sôi nổi, không gò bó, học sinh thực sự bộc lộ hết khả năng của mình. Từ đó học sinh có hứng thú học toán, tạo thành thói quen tự suy nghĩ, chủ động làm bài để tìm ra cách giải hay nhất và nhanh nhất và qua học kì 1 kết quả đạt được như sau :
Học sinh giỏi: 12em chiếm 38,7% 
Học sinh khá : 13 em chiếm 41.9 %
Học sinh trung bình : 4 em chiếm 12.9%
Học sinh yếu : 2 em chiếm = 6.4%
IV. BÀI HỌC KINH NGHIỆM
- Để học sinh học tốt các yếu tố hình học, học sinh phải rèn luyện thường xuyên, kiên trì, giáo viên luôn nhắc nhở luyện tập, học sinh yếu cần kiên trì, giúp đỡ phụ đạo thêm, không “ bỏ qua” nhưng cũng không “ nôn nóng” đòi hỏi ráo riết phải giỏi ngay sau khi học tại lớp.
- Học sinh học các yếu tố hình học còn yếu do sự tiếp thu bài kém, giáo viên cần luyện tập riêng và giúp đỡ thêm ở các tiết học ôn luyện vào cuối tuần hàng tuần.
- Học sinh học các yếu tố hình học chưa đạt do còn thiếu ý thức tự học, giáo viên cần nắm rõ những hạn chế để có hướng khắc phục, học sinh có học được, hiểu nội dung bài thì mới có thể tự mình làm, tự mình chiếm lĩnh nội dung bài học một cách tốt nhất.
V. KẾT LUẬN
Trên đây là một số kinh nghiệm nhỏ của tôi khi dạy cho học sinh các yếu tố hình học cho học sinh. Tôi thấy kết quả đạt được của lớp tôi rất đáng mừng. Tôi sẽ áp dụng những biện pháp này và cố gắng học hỏi thêm ở các bạn đồng nghiệp để tôi có được những phương pháp hay hơn để giảng dạy đạt kết quả ngày càng tốt hơn.
Cuối cùng tôi xin chân thành cảm ơn !
	Bảo Lộc, ngày10 /12/ 2011.
	Người viết
 Hồ Thị Hịe

Tài liệu đính kèm:

  • docmot_so_giai_phap_giup_hoc_sinh_lop_hai_hoc_tot_cac_yeu_to_hi.doc