PHẦN MỞ ĐẦU
1/ Lí do chọn sáng kiến kinh nghiệm
1.1/ Nhận thức vị trí và tầm quan trọng của việc d¹y tập viết và chữ viết
Tập viết là một trong những phân môn có tầm quan trọng đặc biệt ở tiểu học đối với học sinh lớp 1.2. Nó góp phần rèn luyện kỹ năng viết chữ - một trong những kỹ năng hàng đầu trong việc học tiếng Việt trong trường.
Mặt khác chữ viết cũng là biểu hiện nét nhân cách của con người.
Cố vấn Phạm Văn Đồng đã nói:
“ Chữ viết cũng là biểu hiện của nết người. Dạy cho học sinh viết đúng, viết cẩn thận, viết đẹp cũng góp phần rèn luyện cho các em tính cẩn thận, lòng tự trọng đối với mình và bạn đọc bài vở của mình”
1.2 Đáp ứng yêu cầu đổi mới trong d¹y và học
Theo tinh thần đổi mới phương pháp d¹y và học.
Tiếng Việt rất cần phải tạo điều kiện cho học sinh tự giác luyện tập và rút kinh nghiệm qua thực hành luyện viết dưới sự hướng dẫn của giáo viên. Việc rèn luyện kỹ năng viết nhanh, đẹp cho học sinh sẽ góp phần đáp ứng được yêu cầu này.
PHẦN MỞ ĐẦU 1/ Lí do chọn sáng kiến kinh nghiệm 1.1/ Nhận thức vị trí và tầm quan trọng của việc d¹y tập viết và chữ viết Tập viết là một trong những phân môn có tầm quan trọng đặc biệt ở tiểu học đối với học sinh lớp 1.2. Nó góp phần rèn luyện kỹ năng viết chữ - một trong những kỹ năng hàng đầu trong việc học tiếng Việt trong trường. Mặt khác chữ viết cũng là biểu hiện nét nhân cách của con người. Cố vấn Phạm Văn Đồng đã nói: “ Chữ viết cũng là biểu hiện của nết người. Dạy cho học sinh viết đúng, viết cẩn thận, viết đẹp cũng góp phần rèn luyện cho các em tính cẩn thận, lòng tự trọng đối với mình và bạn đọc bài vở của mình” 1.2 Đáp ứng yêu cầu đổi mới trong d¹y và học Theo tinh thần đổi mới phương pháp d¹y và học. Tiếng Việt rất cần phải tạo điều kiện cho học sinh tự giác luyện tập và rút kinh nghiệm qua thực hành luyện viết dưới sự hướng dẫn của giáo viên. Việc rèn luyện kỹ năng viết nhanh, đẹp cho học sinh sẽ góp phần đáp ứng được yêu cầu này. 1.3 Phù hợp với đặc điểm của địa bàn dân cư: Trường Trung Hiền nằm ở địa bàn dân cư có mặt b»ng dân trí chưa cao. Do chưa được sù quan tâm của cha mẹ nên một số học sinh chữ viết xấu, chưa sạch sẽ. Từ những vấn đề thực tế trên, tôi đã áp dụng “Một số biện pháp rèn kĩ năng viết đúng, đẹp cho học sinh lớp 2” và đã đạt được một số hiệu quả đáng kể. 2/ Mục đích nghiên cứu : T×m ra mét sè biÖn ph¸p rÌn kÜ n¨ng viÕt ®óng, ®Ñp trong ph©n m«n tËp viÕt nh»m n©ng cao chÊt lîng d¹y häc m«n TiÕng ViÖt cho häc sinh líp 2. 3/ Kh¸ch thÓ nghiªn cøu : Häc sinh líp 2 trường tiÓu häc Mỹ Phước A. 4/ §èi tîng nghiªn cøu : * Rèn cho học sinh tư thế ngồi viết đúng, chữ viết đẹp, sạch. * Thói quen cẩn thận tốc độ nhanh khi viết. * Trau dồi ngôn ngữ nói, viết . 5/Phương pháp nghiên cứu Ngoài việc học đồng nghiệp, tôi còn sử dụng các phương pháp sau: - Phương pháp nghiên cứu tài liệu - Phương pháp điều tra - Phương pháp thực nghiệm 6/ Giới hạn nghiên cứu Học sinh lớp 2 nói riêng, học sinh tiểu học nói chung. 7/ Các hoạt động của cá nhân khi nghiên cứu đề tài * Đánh giá thực trạng chất lượng học sinh đầu năm: Tháng 9/2006 * Tiến hành các biện pháp rèn luyện kỹ năng viết cho học sinh: + Từ tháng 10/2006 đến nay. * Khảo sát chất lượng chữ viết cho học sinh lớp thực nghiệm +Giữa kỳ I + Cuối kỳ I + Giữa kỳ II * Tổng kết, viết đề tài: Tháng 4/2007 PHẦN NỘI DUNG I. Cơ sở lý luận của việc rèn luyện kỹ năng viết đúng, đẹp cho học sinh lớp 2 Chữ viết là một công cụ dùng đÓ giao tiếp và trao đổi thông tin, là phương tiện để ghi chép và tiếp nhận những tri thức văn hóa, khoa học và đời sống Do vậy, ở trường tiểu học việc dạy học sinh biết chữ và từng bước làm chủ công cụ chữ viết để phục vụ cho học tập và giao tiếp là yêu cầu quan trọng hàng đầu của môn Tiếng Việt. - So với chương trình lớp 1, nội dung của phân môn tập viết lớp 2 có những yêu cầu cụ thể như sau: 1. Rèn luyện kỹ năng viết chữ cho học sinh. * Tiếp tục rèn luyện cho học sinh kỹ năng viết các chữ thường theo cỡ nhỏ đã học ở lớp 1 nhưng mức độ yêu cầu được nâng cao: viết đúng mẫu và đều nét. * Chính thức dạy học sinh viết chữ hoa theo cỡ vừa và nhỏ (Ở lớp 1 học sinh mới làm quen với chữ hoa qua hình thức tập tô trong giai đoạn luyện tập tổng hợp ở học kỳ 2). Để thực hiện nhiệm vụ này, giáo viên phải giúp học sinh có những hiểu biết nhất định về mẫu chữ hoa do Bộ mới ban hành nhằm tạo điÒu kiện cho các em rèn kỹ năng viết chữ. Cụ thể: - Nhớ được hình dáng các chữ cái viết hoa theo mẫu quy định - Nắm được kích cỡ của từng chữ cái viết hoa (thể hiện trong khung chữ, trong mối quan hệ giữa chữ cái viết thường). VD: Trong cùng cỡ chữ, các chữ cái viết hoa a, ¡ , ¢, B, c có độ cao bằng các chữ cái viết thường b g, h, k, l, y riêng hai chữ cái viết hoa được viết với chiều cao 4 li Y ,G. - Nắm được thao tác viết từng nét chữ để tạo nên chữ cái viết hoa (đưa nét theo đúng quy trình viết ). * D¹y học sinh biết nối (ghép) chữ cái viết hoa với chữ cái thường trong một chữ ghi tiếng đảm bảo tính thẩm mỹ, phục vụ cho yêu cầu viết chính tả và trình bày bài. 2- Kết hợp dạy kỹ thuật viết chữ với rèn chính tả, mở rộng vốn từ; phát triển tư duy. 3- Góp phần rèn luyện những phẩm chất như tính cẩn thận óc thẩm mỹ, ý thức tự trọng người khác II. II. Đánh giá thực trạng của việc dạy và học phân môn tập viết trong trường tiểu học nói chung, trường tiểu học Mỹ Phước A nói riêng. * Trong trường tiểu học việc dạy học sinh viết chữ là một công việc hÕt sức khó khăn chiếm nhiều thời gian và công sức của người giáo viên. Muốn học sinh tiểu học viết đúng mẫu chữ, cỡ chữ tiến tới viết nhanh viết đẹp người giáo viên phải uốn nắn từng li từng tí, phải tỉ mỉ chỉ bảo cho các em. Chính vì vậy nhiều giáo viên rất “ngại” khi rèn sửa cho các em. * Về phía học sinh: Do đặc điểm tâm lý lứa tuổi sự tập trung chú ý của học sinh lớp 1,2 còn yếu thiếu bền vững. Các em mau quên lại chóng chán. Chính vì vậy một số không ít học sinh còn có thái độ tiêu cực:lười biếng, cẩu thả khi viết. * Mặt khác cơ sở vật chất nhà trường cũng là yếu tố quan trọng ¶nh hëng đến quá trình luyện viết của các em. Trường Mỹ Phước A là một ngôi trường nhỏ, phòng học còn hạn chế về diện tích, vì vậy các em ngồi viết chưa được tho¶i mái. Năm học 2006-2007 tôi được nhà trường phân công phụ trách lớp 2. Sau khi làm quen với lớp, tôi nhận thấy - Nhiều học sinh ngồi sai tư thế khi viết, lưng không thẳng, mắt dí sát vào vở như các em Duy , Thành , Thu, Ly...cã em cầm bút bằng 5 ngón tay như Quốc , Phúc, Tú ... - Tốc độ viết rất chậm như: Phúc, Mạnh, Tú - Chữ viết chưa đạt yêu cầu thể hiện ở một số điểm: + Chưa đúng hình dáng, cấu tạo chữ cái. + Không viết đúng quy trình viết chữ cái (điểm đặt bút chưa đúng ). + Không viết đúng độ cao các con chữ. + Chưa có kĩ năng viết liền mạch, liên kết chữ cái tạo chữ ghi tiếng. + Vị trí dấu thanh sai. * Thống kê điểm chữ viết. Các đợt kiểm tra Đạt yêu cầu Chưa đạt yêu cầu Khá TB SL % SL % SL % Đầu năm 13 35,2 17 45,9 7 19 * Phân loại theo VSC§ SÜ sè Lo¹i A Lo¹i B Lo¹i C SL % SL % SL % 37 17 45,9 % 17 45,9 % 3 8,1 % Với kết quả như trên tôi đã suy nghĩ ®Ó t×m ra các biện pháp để rèn ch÷ viÕt cho học sinh như sau: III. Các biện pháp tiến hành. Biện pháp 1 : Phân loại chữ viết của học sinh theo các mức độ. Ngay từ đầu năm học tôi đã cho kiểm tra chữ viết của các em. Tôi xem xét kỹ để phân loại chữ viết của học sinh theo các mức độ khác nhau. Từ đó tôi lên kế hoạch để sửa “tật”cho từng em VD: Những em có điểm đặt bút chưa đúng tôi chỉ bảo cho các em cách tính dòng kẻ, xác định điểm đặt bút Những em viết chưa thẳng tôi có kế hoạch cho luyện nét sổ thẳng, chữ chưa tròn tập viết nét cong tròn Nhờ vậy các em đã nhớ lại được quy trình viết từng con chữ, biết luyện dần từng chữ. Dần dần kết quả đã tốt hơn rất nhiều Biện pháp 2 : Rèn tư thế viết đúng cho học sinh. Tôi nhận thấy khi học sinh ngồi viết đúng tư thế sẽ là điều kiện thuận lợi cho các em viết đúng, viết đẹp. Mặt khác việc làm đó cũng góp phần để phòng học sinh mắc bệnh cận thị khi căn bệnh này ngày một gia tăng trong nhà trường phổ thông hiện nay. Tôi đã hướng dẫn các em như sau: * Tư thế ngồi viết: Ngồi ngay ngắn, không tì ngực vào bàn, đầu hơi cúi, hai mắt cách vở từ 25cm – 30cm. Cánh tay trái đặt trên mặt bàn bên trái vở, bàn tay trái tì vào mép vở giữ vở không xê dịch khi viết. Cánh tay phải để ở trên mặt bàn Cách cầm bút: Khi viết học sinh cầm bút và điều khiển bút bằng ba ngón tay (ngón trỏ, ngón cái và ngón giữa của bàn tay phải). Đầu ngón trỏ đặt ở phía trên, đầu ngón cái giữ bên trái, phía bên phải của đầu bút tựa vào cạnh đốt đầu ngón tay giữa. * Vị trí đặt vở: Vở đặt nghiêng so với mép bàn một góc khoảng 30 độ nghiêng về phía bên phải. Để học sinh có kĩ năng trên, tôi đã làm một số công việc sau: - Treo tranh mẫu tư thế ngồi viết và cách cầm bút trong phòng học ở lớp, đồng thời thu nhỏ các hình ảnh này trên một trang giấy, phát cho từng học sinh kẹp trong vở tập viết của mình để đánh dấu trang cần viết và luôn quan sát được khi viết - Luôn nhắc nhở và uốn nắn tư thế viết ở tất cả giờ học chú trọng đặc biệt trong giờ tập viết. - Trao đổi cha mẹ học sinh về việc kiểm tra nhắc nhở con em khi tập viết ở nhà ngay trong buổi họp CMHS biết để uốn nắn ở nhà. Ngoài việc rèn tư thế tập viết đúng tôi còn chú trọng việc phân loại các lỗi sai của học sinh trong quá trình viết để có thể rèn cho các em. Biện pháp 3: Sử dụng hiệu quả đồ dùng dạy học, phương tiện dạy học. Do đặc điểm tâm lý lứa tuổi học sinh lớp 1,2 tôi thấy việc sử dụng đồ dùng trực quan ( chữ mẫu)trong mỗi tiết tập viết là cần thiết. Đây cũng là điều kiện đầu tiên để các em viết đúng Chữ mẫu có nhiều hình thức: Chữ mẫu in sẵn, chữ mẫu phóng to trên bảng, chữ mẫu trong vở tập viết, hộp chữ mẫu, chữ mẫu của giáo viên mỗi loại chữ mẫu có tác dụng khác nhau. Cụ thể: + Chữ mẫu phóng to trên bảng sẽ giúp học sinh dễ quan sát, từ đó tạo điều kiện cho các em phân tích hình dạng, kích thước và các nét cơ bản cấu tạo chữ cái cần viết trong bài học. + Chữ mẫu của giáo viên viết trên bảng giúp học sinh nắm được thứ tự viết các nét chữ của từng chữ cái, cách nối các chữ cái trong một chữ nhằm đảm bảo yêu cầu viết liền mạch, viết nhanh. + Chữ viết trong hộp chữ giúp các em kết hợp mắt nhìn, tay sờ để phối hợp các thao tác viết chữ một cách đồng bộ. + Chữ của cô khi chấm bài, chữa bài cũng được học sinh quan sát như một loại chữ mẫu. Vì vậy tôi luôn cố gắng viết đẹp đúng mẫu, rõ ràng. Tóm lại để hỗ trợ cho việc dạy tập viết đạt hiệu quả cao người giáo viên cần triệt để sử dụng các hình thức chữ mẫu cũng như nắm vững tác dụng của mỗi hình thức chữ mẫu đó Biện pháp 4: Rèn kỹ thuật viết chữ Tập trung rèn luyện kĩ thuật liên kết liền mạch chữ cái viết hoa với chữ cái viết thường. Tôi đã phân loại các trường hợp viết liên kết như sau: * Trường hợp viết nối thuận lợi: Nét móc cuối cùng của chữ cái đứng trước nối với nét móc đầu tiên của chữ cái đứng sau VD: Bài A – Anh em thuận hoà Quy trình viết nối chữ Anh Viết chữ cái A đã học. Từ điểm cuối của nét lượn ngang thân chữ cái A lia bút xuống điểm cuối của nét móc ngîc phải chữ cái A để viết tiếp nét nối với nét móc trái của chữ cái n. Tiếp tục viết nét móc thứ hai của n. Khi viết đến phần móc phải phía dưới lượn cong bình thường có thể viết nối với phần nét khuyết của chữ cái h, sau đó viết hoàn chỉnh chữ cái h. * Trường hợp viết nối không thuận lợi: đó là trường hợp nét cuối của chữ cái đứng trước với điểm bắt đầu của chữ cái đứng sau không thể viết nét nối. VD: Bài C – Chia ngọt sẻ bùi Quy trình viết chữ Chia Viết chữ C như đã học, từ ®iểm dừng bút của chữ C lia bót để viết tiếp chữ h rồi rê bút viết tiếp chữ cái i và chữ cái a. Kỹ thuật viết nối chữ (Các chữ cái viết thường). Việc nối chữ chủ yếu được thực hiện ở các chữ cái viết thường khi chúng đứng lại gần nhau. Dựa vào những nét cơ bản của chữ cái tiếng Việt, tôi phân loại thành 4 trường hợp nối chữ (từ dễ đến khó) và lưu ý học sinh như sau: (*) Trường hợp 1: nét móc cuối cùng của chữ cái trước nối với nét móc hoặc nét hất đầu tiên của chữ cái sau: VD: a – n = an; i – m = im; t – ư = tư... Nhìn chung trường hợp này viết dễ dàng thuận lợi Lưu ý học sinh: Khi nối 2 nét móc ở hai chữ cái, cần điều tiết về độ doãng (khoảng cách giữa 2 chữ cái) sao cho vừa phải, hợp lý để chữ viết đều nét và có tính thẩm mĩ. (*) Trường hợp 2: Nét cong cuối cùng của chữ cái sau với nét móc (hoặc nét hất) đầu tiên của chữ cái sau VD: e - m = em; c – ư = cư... Trường hợp nối chữ này cũng tương đối dễ dàng. Lưu ý: Điều chỉnh khoảng cách giữa hai chữ cái sao cho không gần quá hay xa quá (VD: em,cư...) Hoặc chuyển hướng ngßi bút ở cuối nét cong (kín) để nối sang nét móc (hoặc nét hất) sao cho hình dạng hai chữ cái vẫn rõ ràng, khoảng cách hợp lý (VD ơn, oi...) (*) Trường hợp 3: Nét móc (hoặc nét khuyết) của chữ cái trước nối với nét cong của chữ cái sau (VD: a – c = ac, h – o = ho, y – ê = yê...) đây là trường hợp nối chữ tương đối khó, vừa đòi hỏi kỹ thuật lia bút vừa yêu cầu việc ước lượng khoảng cách sao cho vừa phải, hợp lý. Lưu ý học sinh: + Xác định điểm kết thúc (dùng bút) ở chữ cái trước để lia bút viết tiếp chữ cái sau sao cho liền mạch tạo thành một khối các chữ cái. + Điều chỉnh phần cuối nét móc của chữ cái trước hơi doãng rộng một chút để khi viết tiếp chữ cái sau sẽ có khoảng cách vừa phải (không gần quá) VD: Khi híng dÉn häc sinh viÕt ch÷ “ao”, gi¸o viªn lu ý nh¾c HS điều chỉnh phần cuối nét móc của chữ a để khi viết tiếp chữ cái o sẽ có khoảng cách giữa a và o không gần quá (bằng khoảng cách giữa a và i (ai). (*) Trường hợp 4: Nét cong của chữ cái trước nối với nét cong của chữ cái sau VD: o – e = oe; o – a = oa; x- o = xo... Đây là trường hợp nối chữ khó nhất vừa đòi hỏi các kỹ thuật rê bút, lia bút, chuyển hướng bút để tạo nét nối vừa yêu cầu việc ước lượng khoảng cách hợp lý, trên cơ sở thói quen và kĩ năng viết khá thành thạo cña häc sinh. Lưu ý học sinh trêng hîp viÕt ch÷ oe, oa.: + Rê bút từ điểm cuối của chữ cái o chúc xuống để gặp điểm bắt đầu của chữ cái e sao cho nét vòng ở đầu chữ cái không được to quá (oe). Rê bút từ điểm cuối của chữ cái o sang ngang rồi lia bút viết tiếp chữ cái a (oa). Ngoài ra tôi còn hướng dẫn các em cách viết liền mạch. Viết liền mạch là viết tất cả các hình cơ bản của chữ cái trong một chữ ghi tiếng rồi sau đó mới đặt dấu (kể cả dấu phụ của con chữ) và dấu ghi thanh. VD Viết chữ ruộng: Viết chữ liền mạch các hình cơ bản của chữ cái thành ruong sau đó đặt dấu mũ (dấu phụ) trên 0 và dấu nặng (dấu thanh) dưới ô để thành ruộng. Như vậy, với việc phân tích cách liên kết, cách viết liền mạch ngay từ những bài viÕt đầu tiªn, nhiều học sinh trong lớp đã nắm được quy trình viết c¸c tõ ứng dụng. ë các bài tiếp theo, không cần sự hướng dẫn tỉ mỉ của cô giáo c¸c em còng cã thÓ viÕt ®óng ch÷ theo mÉu. Tốc độ viết chữ của cả lớp nhanh dần. Chính vì vậy chất lượng học tập cña häc sinh m«n TiÕng ViÖt được nâng lên một cách rõ rệt. Tập viết là một phân môn thực hành. Ngoài việc nắm được kĩ thuật viết chữ học sinh phải được luyện tập nhiều lần để hình thành kĩ năng, kĩ xảo. Vì thế việc luyện chữ viết cho học sinh là rất quan trọng. Biện pháp 5: Tăng cường luyện tập thực hành. Trước đây, trong tiết tập viết, một số giáo viên vẫn còn giảng giải nhiều thời gian luyện của học sinh còn ít... Hiện nay, để đáp ứng nhu cầu đổi mới phương pháp dạy học giờ tập viết cần tạo điều kiện để học sinh thực hành nhiều, tự rút kinh nghiệm cho bản thân, từ đó rèn kĩ năng viết nhanh, đẹp. Tôi sử dụng các hình thức tập luyện sau: + Học sinh tập viết chữ trên bảng lớp, trên bảng con. Cách làm này rất tốt và giáo viên có thể kiểm tra được từng học sinh, uốn nắn để học sinh tự sửa chỗ sai của mình trên bảng tríc khi viÕt vµo vë. - Luyện tập viết trong vở tập viết: Giáo viên cần chú ý giúp các em viết đủ, viết đúng số dòng đầu tiên ở mỗi phần bài viết để các em viết tốt hơn ở những dòng tiếp sau: - Luyện tập viết chữ ở các môn học khác: Cần tận dụng việc tập viết các bài học, bài làm ở các môn học khác để học sinh tập viết . Để luyện tập đạt tới hiệu quả viết nhanh, đẹp, tôi thấy giáo viên cần chú ý: + Rèn luyện kĩ năng viết chữ phải tiến hành toàn diện, ở lớp, ở nhà, ở đủ các môn học khác. + Kiên trì sửa và rèn chữ viết cho học sinh Như vậy, với việc tăng cường luyện tập thực hành, học sinh lớp tôi đã có được kĩ năng viết nhanh, đẹp đồng thời rèn luyện được ý thức tự giác luyện tập trong các môn học như Toán, Tiếng Việt. Ngoài các biện pháp nêu trên tôi còn kết hợp các công việc sau: *Khuyến khích, khen ngợi kịp thời các em viết đúng, viết đẹp. Công việc này tưởng chừng đơn giản nhưng hiệu quả của nó cũng tương đối rõ rệt. Vì đặc điểm tâm lý của học sinh lớp 2 rất thích được khen nên với mỗi bài viết đẹp tôi vẫn cố gắng động viên các em kịp thời. Tôi dành một góc trong lớp để trưng bày các bài viết đẹp. Nhờ vậy đã tạo được một không khí thi đua trong lớp. Các em hào hứng luyện viết và tiết học không còn khô khan nữa. * Kết hợp với PHHS trong việc rèn chữ cho các em ở nhà Vì đối tượng học sinh của tôi phần lớn là con em lao động nghèo, bố mẹ không có thời gian cũng như không có kĩ thuật viết đúng đẹp để kèm con em nên ngay từ buổi họp CMHS đầu năm học tôi đã trao đổi với các vị PH một số điểm cần lưu ý khi dạy viết. Tôi cũng sưu tầm một số tài liệu, một số bài viết đẹp của các học sinh kh¸c, photo tới tận tay từng vị phụ huynh để các vị có cơ sở làm mẫu cho con em mình luyện viết. Bằng sự phối hợp các biện pháp nêu trên một cách hài hoà, chữ viết của học sinh lớp tôi tiến bộ rõ rệt; đồng thời kết quả học tập các em cũng được nâng cao qua các đợt kiểm tra. IV.Kết quả *Chữ viết Các đợt kiểm tra Đạt yêu cầu Chưa đạt yêu cầu Khá TB SL % SL % SL % Đầu năm 13 35,2 17 45,9 7 19 Cuối kỳ I 24 64,9 10 27 3 8,1 Cuối kỳ I 27 73 10 27 0 0 Cuối kỳ II 27 73 10 27 0 0 Cuối kỳ II *VSCĐ Các đợt KT Loại A Loại B Loại C SL % Sl % SL % Đầu năm 17 45,9 17 45,9 3 8,2 Giữa kì I 20 54,1 16 43,2 1 2,7 Cuối kỳ I 26 70,3 11 29,7 0 0 Giữa kì 2 27 73 10 27 0 0 Cuối kỳ 2 PHẦN KẾT LUẬN vµ khuyÕn nghÞ Để việc rèn luyện cho học sinh lớp 2 có thể viết đúng, đẹp là một công việc hết sức bền bỉ, kiên trì của cả thầy và trò. Những kinh nghiệm mà bản thân tôi rút ra được trong quá trình áp dụng các biện pháp đã nêu là: - Nắm bắt kịp thời các văn bản hướng dẫn chỉ đạo. - Phối hợp với CMHS để có thông tin trao đổi kịp thời. - Trẻ tiểu học hiếu động thiếu kiên trì, vì vậy người giáo viên cần có sự chu đáo, tận tình hưíng dẫn, rèn, sửa cho các em. - Luôn nhắc nhở học sinh viết đúng mẫu, nhanh, đẹp ở tất cả các môn học. - Tạo được không khÝ vui vẻ, phấn chấn cho trẻ khi viết. - Bản thân giáo viên cũng phải luyện chữ, bëi ch÷ mÉu cña c« còng lµ mét gi¸o cô trùc quan ®Ó häc sinh noi theo. - Có kế hoạch rèn chữ, coi rèn chữ là yếu tố quan trọng để rèn nết người . * Khuyến nghị - Mong các cấp lãnh đạo quan tâm hơn nữa đến việc mở rộng tổ chức phong trào thi viết chữ đẹp, có phần thưởng động viên xứng đáng. - Tăng cường chuyên đề thực tập tập viết. - Nên chăng bàn ghế cải tiến cho phù hợp với từng khối lớp mặt bàn hơi nghiêng để học sinh ngồi viết thẳng lưng. Trên đây là một số biện pháp và kết quả bước đầu khá khả quan của tôi trong viÖc giảng dạy môn tiếng Việt nói chung và việc dạy tập viết nói riêng cho học sinh lớp 2 năm học 2006-2007. Rất mong sự đóng góp, xây dựng ý kiến của các bạn đồng nghiệp, của ban giám hiệu và của các cấp lãnh đạo ®Ó t«i cã chuyªn m«n vững vàng và tự tin hơn trong giảng d¹y. Tôi xin chân thành cảm ơn ! TÀI LIỆU THAM KHẢO - Bé GD - §T - Sách giáo khoa tiếng Việt lớp 2 - NXBGD - 2003 - Bé GD - §T - Sách giáo viªn tiếng Việt lớp 2 - NXBGD - 2003 - Bé GD - §T- Hái ®¸p phương pháp giảng d¹y Tiếng Việt líp 2 - NXBGD - 2003 - Bé GD - 88 câu hỏi về ph¬ng ph¸p d¹y häc tiếngViệt. - TrÇn M¹nh Hëng – Phan Quang Th©n – NguyÔn H÷u Cao – D¹y vµ häc TËp viÕt ë TiÓu häc. - Tạp chí giáo dục TiÓu häc.
Tài liệu đính kèm: