Tên đề tài :
MỘT SỐ BIỆN PHAP GIÚP HOC SINH YẾU LỚP 2 HỌC TÔT HƠN
A. ĐẶT VẤN ĐỀ
I. Lý do chọn đề tài
Chúng ta biết rằng học sinh ở bậc Tiểu học là nhân vật trung tâm của nhà trường, là mục đích của nhà trường, hơn thế nữa đây là giai đoạn đầu phát triển của cả một đời người là nền móng cho các em sau này. Ở lứa tuổi Tiểu học là từ 6 đến 11 tuổi thì hoạt động chủ đạo của các em là hoạt động học, mà yêu cầu trước hết để các em thực hiện tốt hoạt động này là các em phải biết đọc thông, viết thạo một yêu cầu tưởng chừng như là đơn giản nhưng lại rất quan trọng đối với các em.
Tên đề tài : MỘT SỐ BIỆN PHAP GIÚP HOC SINH YẾU LỚP 2 HỌC TÔT HƠN A. ĐẶT VẤN ĐỀ I. Lý do chọn đề tài Chúng ta biết rằng học sinh ở bậc Tiểu học là nhân vật trung tâm của nhà trường, là mục đích của nhà trường, hơn thế nữa đây là giai đoạn đầu phát triển của cả một đời người là nền móng cho các em sau này. Ở lứa tuổi Tiểu học là từ 6 đến 11 tuổi thì hoạt động chủ đạo của các em là hoạt động học, mà yêu cầu trước hết để các em thực hiện tốt hoạt động này là các em phải biết đọc thông, viết thạo một yêu cầu tưởng chừng như là đơn giản nhưng lại rất quan trọng đối với các em. Hiện nay các trường đang thực hiện chỉ thị số 33/2006 CT-TTG ngày 08/02/2006 của thủ tướng chính phủ về chống tiêu cực và khắc phục bệnh thành tích trong giáo dục thông qua cuộc vận động “ Hai không” với bốn nội dung. Bản thân tôi cũng thấy rằng trong giảng dạy phải có chất lượng và thực hiện có hiệu quả trong năm. Để đạt được điều đó tất cả các lớp, các cấp phải chú trọng đến từng cấp học, phải quan tâm đến từng đối tượng học sinh giỏi, khá, TB và yếu. Mục tiêu trước mắt của giáo viên là làm sao nâng chất lượng dạy và học để đưa học sinh trung bình lên học sinh khá, học sinh giỏi phải đạt kết quả cao hơn nữa, đặc biệt là đưa học sinh yếu đạt học sinh trung bình để cuối năm không có học sinh yếu, học sinh lưu ban ( vì hiện nay đang duy trì, củng cố thành tựu phổ cập giáo dục Tiểu học - Chống mù chữ, đẩy mạnh thực hiện phổ cập giáo dục Tiểu học đúng độ tuổi). Đó là một trong những nhiệm vụ, mục tiêu của năm học đề ra cho từng lớp, từng cấp. Riêng đối với lớp 1-2 là những lớp đầu của bậc Tiểu học, nó có vị trí vô cùng quan trọng là lớp tạo nền móng cho những lớp trên, cấp học trên. Nâng cao chất lượng văn hóa, rèn luyện và giáo dục tư cách đạo đức cho học sinh tốt sẽ hạn chế được học sinh yếu kém, lưu ban. Do đó sự giúp đỡ của giáo viên đối với học snh là rất quan trọng, làm sao cho các em từng bước học tập có kết quả, từ đó gây lòng tự tin hứng thú cố gắng học tập. Những học sinh phát triển bình thường có đều có khả năng tiếp thu chương trình và đạt yêu cầu quy định. Trong thực tế thì trong một lớp học số học sinh đạt kết quả thấp tương đối nhiều? Nguyên nhân do đâu ? Vì sao ? Đó là những băn khoăn của bản thân tôi và cũng là lý do mà tôi chọn làm đề tài “ Phụ đạo học sinh yếu kém lớp 1-2”. II. Nguyên nhân Thông qua giảng dạy những lớp đầu cấp đầu cấp nhiều năm liền tôi đã tìm hiểu và tìm ra một số nguyên nhân sau : 1. Đó là sự phát triển nhận thức của học sinh cùng lứa tuổi không đồng đều. 2. Hoạt động tư duy có những nét riêng đối với từng em. 3. Thái độ học tập ở các em chưa được định hướng rõ. 4. Sức khỏe chưa tốt. 5. Đời sống vật chất còn gặp nhiều khó khăn, đồ dùng sách vở học tập không đầy đủ. 6. Vấn đề học tập ở nhà không được quan tâm, hay quên mang đồ dùng sách vở học tập. 7. Còn nữa do một số các em chưa học qua lớp mẫu giáo mà các em vẫn lên lớp bình thường. Không dừng lại ở những nguyên này, không chỉ về một phía học sinh mà còn có những nguyên nhân từ phía giáo viên có thể là : F Nhịp độ giảng bài quá nhanh dẫn đến học sinh không hiểu bài nắm vững kiến thức đồng bộ ( vì nhận thức học sinh không đồng đều). F Phương pháp giảng dạy còn thiếu sót. FĐồ dùng trực quan cũng như những đồ dùng cần thiết cho một tiết dạy chưa được đảm bảo. FTinh thần trách nhiệm của giáo viên đối với học sinh chưa đầy đủ. Những nguyên nhân trên đã tác động tổng hợp, làm mất hứng thú học tập, học sinh thiếu tự tin, thiếu cố gắng vươn lên kết quả học tập yếu, không ổn định. Từ những nguyên nhân đó mà dẫn đến những biểu hiện sau. III. Hoạt động tư duy của học sinh kém có những biểu hiện - Tư duy thiếu linh hoạt. - Sự chú ý, óc quan sát, trí tưởng tượng đều phát triển chậm . - Diễn đạt bằng ngôn ngữ khô khan lúng túng, nhiều chỗ còn lộn xộn. - Biểu hiện bề ngoài là thơ ơ với thái độ học tập, giáo viên giảng bài hỏi lại học sinh trả lời ngập ngừng không tin ở chính mình, thái độ tiếp thu thụ động. - Nghịch ngợm,có cá tính ham chơi, lười học dẫn đến học kém và ngại học. Đứng trước thực tế đó tôi băn khoăn và tự đặt ra câu hỏi cho bản thân đó là: Tôi phải làm gì và làm như thế nào để gúp cho những học sinh của tôi học tốt hơn? Với trách nhiệm của người giáo viên chủ nhiệm lớp, tôi không thể nào yên tâm được, tôi nghĩ rằng nếu để tình trạng này kéo dài thì chất lượng của lớp sẽ kém đi chưa đạt được yêu cầu về chất lượng mà lớp cũng như trường đề ra, nhất là sẽ ảnh hưởng đến toàn bộ quá trình tiếp thu kiến thức của học sinh. Vì thế thông qua quá trình giảng dạy, qua việc tìm hiểu nguyên nhân và những biểu hiện của học sinh yếu đã tìm ra những biện pháp thích hợp với từng đối tượng, từng học sinh yếu. IV. Biện pháp 1. Để rèn luyện cho học sinh có những thói quen và phương pháp học tốt, đáp ứng và yêu cầu đặt ra là giáo viên phải tìm ra những biện pháp phù hợp kết hợp với lòng yêu nghề mến trẻ, hiểu được tâm lý của trẻ và bản thân phải nhiệt tình trong công tác giảng dạy, phải thật sự là người mẫu mực, là tấm gương sáng cho học sinh noi theo. Yêu nghề mến trẻ Nhưng một điều quan trọng để sớm đi đến đó là giáo viên phải nắm bắt được hoàn cảnh, tình hình học tập của từng em, nắm rõ được những em học yếu, yếu ở mức độ nào ? Nguyên nhân do đâu ? Từ đó tìm ra những phương pháp giảng dạy để thu hút tuyệt đối sự chú ý của các em, cố gắng tạo niềm vui trong lúc học không để các em nhàm chán. Đó có thể là phương pháp tốt mà tôi đã áp dụng đầu tiên bằng cách luôn động viên khuyến khích các em kịp thời. Do đặc điểm tâm sinh lý của lứa tuổi các em là hiếu động thích vui chơi, một số các em lại chưa qua mẫu giáo đã học lớp 1- rồi lại lên lớp 2. Mọi cái đối với các em đều gò bó vì ở nhà các em thích gì đều được, hay nhõng nhẽo, nhưng khi đến lớp với tôi lại rất nghiêm khắc nhưng lại vừa nhẹ nhàng động viên gần gũi. VD: Sau câu trả lời của học sinh tôi khen ngợi ngay “Em rất cố gắng” hay “ Lần này bạn rất giỏi cả lớp khen bạn nào”. Sau mỗi lần khen là tôi đã gây được lòng tin của các em .Có những lúc các em chưa viết đúng, đọc hay làm tính còn sai tôi không phê bình mà vẫn khen động viên khuyến khích rằng “ em cần cố gắng hơn nữa” tránh thái độ, lời nói chạnh lòng tự ái hoặc mặc cảm đối với các em. 2. Biện pháp tiếp theo là: Tôi phân loại học sinh ra nhiều loại như: Đọc kém, viết kém hay làm toán kém. Khi đã nắm được yếu điểm của học sinh tôi lập ngay kế hoạch theo dõi, thường xuyên cụ thể kết quả học tập, làm bài tập, kết quả kiểm tra thật chặt chẽ . - Hoặc phân loại học sinh theo 2 mức độ: sự phát triển trí tuệ chậm, kiến thức không vững chắc. Với nhưng em trí tuệ phát triển chậm thì bản thân tôi phải kiên trì và tìm hiểu biện pháp thích hợp, khắc sâu kiến thức cho các em. Với những học sinh không nắm chắc kiến thức, trong giờ dạy phụ đạo tôi phải tìm hiểu các em đọc sai, làm sai ở những phần nào ? Thuộc mảng nào của kiến thức. Từ đó tôi kèm cặp và gọi các em đọc, viết, làm toán . VD: Khi làm bài toán tìm số bị chia : x : 5 = 5 Tôi cho học sinh nhớ thuần thục những tên gọi các thành phần trong phép tính. Sau đó nhắc lại qui tắc tìm số bị chia cho học sinh đọc thầm bảng nhân 5, chia 5. Sau dó mới giải : X : 5 = 5 X= 5 x 5 X = 25 Hoặc : Khi hướng dẫn một bài văn tả ngắn về biển thì tôi lại phải hướng dẫn bằng cách cho học sinh nhắc lại những từ ngữ tả về biển chẳng hạn tả sóng : bồng bềnh, dào dạt, cuồn cuộn, trắng xóa, .Tả về mặt biển: xanh biếc, phẳng lặng, .. Sau đó lại cho phép từ ngữ đó vào thành câu văn tả về sóng biển, tả mặt biển Cuối cùng mới viết thành đoạn văn ngắn. 3. Biện pháp tiếp theo. Giáo viên luôn tạo ra niềm vui trong học tập cho các em thông qua trò chơi để các em tiếp thu bài, khắc sâu kiến thức dễ dàng hơn (vì khi đọc đã kém thường các em hay chán nản, ít có hứng thú học tập, không chú ý nghe giảng). VD: Có những bài toán tôi tổ chứa trò chơi “truyền điện” hoặc giờ luyện từ và câu có những bài tìm từ có tiếng “biển” chẳng hạn. Đối với lớp 1 có thể là: viết vần mới, tiếng mới vào hai mảnh giấy cắt hình bông hoa để trên bàn sau đó gọi hai em cùng lên chơi trò chơi (hái hoa) bạn nào hái được bông hoa nào thì đọc to cho cả lớp nghe vần, tiếng mới đó. Ai đọc đúng thì cả lớp khen ngợi. Đối với những bài dạy trên lớp (không phải là giờ phụ đạo) tôi luôn tìm tòi biện pháp giảng dạy thích hợp có trọng tâm như tự điều chỉnh nhịp độ giảng dạy, tổ chức việc học tập bằng phương pháp phát huy tính tích cực chủ động của học sinh. Tổ chức hướng dẫn dìu dắt để các em được tiếp cận, chiếm lĩnh hoàn toàn tri thức không áp đặt, các câu hỏi được sắp đặt rõ ràng có hệ thống trong từng bài, từng đối tượng cụ thể trong những bài soạn. Với yêu cầu vừa sức các em và nâng cao dần và không nãn chí, thiếu tự tin, sốt ruột, khắc phục tính ngại khó và những định kiến thiếu tin tưởng và sự tiến bộ của học sinh. Trong khi giảng bài tôi thường xuyên theo dõi sự chú ý của những học sinh yếu để kiểm tra kịp thời sự tiếp thu của học sinh. VD: Khi học xong bài toán “Số có ba chữ số” với số 342 tôi tôi đặt câu hỏi “Số 342 gồm mấy trăm, mấy chục, mấy đơn vị ? ”. Đối với học sinh lớp 1: Khi học xong vần mới nên hỏi “ Hôm nay ta vừa học vần gì ? Vần gồm mấy âm, âm nào đứng trước? Âm nào đứng sau ? Hoặc với toán học số 5 thì đặt câu hỏi “5 gồm 4 và mấy ? ”. Phần hướng dẫn bài tập cần cụ thể hơn với học sinh kém. Mọi nhiệm vụ được giao tôi kiểm tra cụ thể phân tích và sửa chữa kịp thời các sai lầm cho các em. 4. Biện pháp nữa là tổ chức cho học sinh khá giỏi thường xuyên giúp đỡ học sinh kém bằng cách bố trí cho học sinh giỏi ngồi gần học sinh yếu hay đọc sai, đọc chậm, làm toán kém. Và giáo viên thường cho những học sinh yếu đó ngồi đầu bàn để các em dễ chú ý và giáo viên thường xuyên kiểm tra và giúp đỡ kịp thời. Học sinh giỏi kèm cặp học sinh yếu 5. Cuối cùng là biện pháp làm việc với sách giáo khoa và bảng con. Học sinh làm việc với SGK đối với lớp đầu cấp là việc hết sức quan trọng. Nên trong giờ học tôi đã dành thời gian nhất định để các em xem hình vẽ, mô hình minh họa (cố gắng để cả lớp có SGK). VD: Trong giờ tập đọc: 1 học sinh đọc những học sinh khác có nhiệm vụ theo dõi và nhận xét bạn đọc. Hoặc khi làm toán dùng bảng con làm tôi có thể kiểm tra và sửa sai cho học sinh một cách tương đối nhiều, bao quát nhanh những học sinh yếu làm bài như thế nào để kịp thời uốn nắn. 6. Khắc phục được hiện tượng một số học sinh không làm việc trong giờ học đó là những học sinh không có đủ đồ dùng học tập, không thích ứng với nhịp độ bài giảng. Giáo viên cần lôi cuốn học sinh bằng cách nhắc nhở lại câu hỏi của cô hay câu trả lời của bạn hay kết luận của giáo viên. Tránh tình trạng không cho các em tham gia hoạt động học tập vì không được giao nhiệm vụ bằng cách giáo viên phải bao quát được lớp, nhắc nhở thường xuyên. Để làm tốt biện pháp này đòi hỏi tôi phải tìm hiểu hoàn cảnh gia đình của những học sinh yếu vì hầu như ở lớp tôi thường học sinh yếu lại rơi vào những gia đình có hoàn cảnh khó khăn, bố mẹ không có tiền mua đầy đủ sách vở và đồ dùng học tập, hay không quan tâm đến sự học tập của con cái. Vì thế tôi lại phải nhờ đến nhà trường cho mượn sách vở và đồ dùng học tập khi đến lớp đó cũng là tạo những ấn tượng tốt trong các em để các em có niềm tin ở trường lớp, thầy cô, bạn bè từ đó có ý chí vươn lên. 7. Ngoài những biện pháp trên (tổ chức giảng dạy đó là phần bắt buộc) tôi luôn tổ chức trò chơi, văn nghệ, kể chuyện và những hoạt động khác để tạo dựng nơi các em lòng tin yêu trường lớp, tha thiết học tập thích gần gũi với thầy cô, bạn bè để từ đó các em luôn chấp hành tốt nhiệm vụ và kỹ luật của buổi học tập. Tổ chức văn nghệ 8. Cuối cùng là biện pháp phối hợp chặt chẽ giữa giáo viên chủ nhiệm với gia đình bằng cách qua sổ liên lạc để gia đình tạo điều kiện đôn đốc các em thực hiện tốt kết hoạch ở trường, ở nhà. Hơn thế nữa bản thân tôi cũng đã gắn bó với học sinh thân yêu, từng thấy trách nhiệm của mình đối với học sinh là cả một bước quan trọng không thể nhìn thấy sau mỗi giờ học, buổi học mà nhìn thấy học sinh mình có nhiều em vẫn chưa hiểu bài nên tôi đã nghĩ mọi phương pháp giảng dạy ( như đã trình bày trên). Ngoài ra tôi còn dành thời gian1-2 buổi/ tuần phụ đạo cho các em yếu kém. Tóm lại, tùy và từng đối tượng để giáo viên có biện pháp cụ thể thích hợp để tổ chức dạy học chứ không theo phương pháp cứng nhắc, áp đặt. Đó là biện pháp thiết thực nhất để nâng cao học, hạn chế được tối đa học sinh yếu kém, không có học sinh lưu ban, không có học sinh ngồi nhầm lớp, đẩy nhanh tiến bộ phổ cập giáo dục tiểu học mà kế hoạch năm học đã đề ra. V. Kết quả Qua một thời gian (2năm) tôi tự tìm tòi, nghiên cứu ra những biện pháp để thực hiện vào việc giảng dạy, phụ đạo học sinh yếu kém. Bản thân tôi lại là giáo viên dạy ở địa bàn khó khăn, dân trí thấp, dân nhập cư, dân ở trọ nhiều nên việc giảng dạy gặp nhiều khó khăn. Nhưng với lòng yêu nghề, yêu trẻ với những kinh nghiệm ít ỏi của mình tôi đã mạnh dạn áp dụng trong những năm qua. Kết quả cho thấy rằng lớp tôi sau những đợt kiểm tra định kỳ tăng lên rõ rệt. Những học sinh từ không biết đọc, không biết làm toán, không biết viết văn bây giờ đã tiến bộ rõ nét đáng khen ngợi. Kết quả như sau: Điểm kiểm tra định kì Môn Sỉ số Giữa kì I Điểm 9-10 Điểm 7-8 Điểm 5-6 Điểm dưới 5 SL % SL % SL % SL % Tiếng việt 21 3 14.3 6 28.5 9 42.9 3 14.3 Toán 21 3 14.3 7 33.3 9 42.9 2 9.5 Điểm kiểm tra định kì Môn Sỉ số Cuối kì I Điểm` 9-10 Điểm 7-8 Điểm 5-6 Điểm dưới 5 SL % SL % SL % SL % Tiếng việt 21 5 23.8 7 33.3 8 38.1 1 4.8 Toán 21 7 33.3 8 38.1 5 23.8 1 4.8 B. BÀI HỌC KINH NGHIỆM Từ những kết quả đạt được trong kết quả giảng dạy. Tôi tự thấy bồi dưỡng, rèn luyện học sinh yếu kém ở những lớp đầu cấp là vô cùng quan trọng nâng cao chất lượng học cho học sinh trước hết giáo viên phải thực hiện tốt những yêu cầu sau: - Người giáo viên phải yêu nghề, mến trẻ, phải hết lòng vì nghề nghiệp, vì học sinh thân yêu, tìm tòi phương pháp giảng dạy thích hợp, bồi dưỡng vốn sống năng lực cho bản thân. - Giáo viên phải nắm từng đối tượng, từng cá nhân thật cụ thể để có phương pháp giáo dục cụ thể. - Giáo viên phải gần gũi giúp đỡ các em vượt qua mọi khó khăn từ đó các em có chỗ dựa vững chắc để vươn lên. - Giáo viên phải kỳ công bày vẽ, từng ly từng tí cho học sinh. - Trong quá trình giảng dạy giáo viên cần động viên, nhắc nhở kịp thời để các em cố gắng, khắc phục kịp thời. C. Ý KIẾN ĐỀ XUẤT Để đáp ứng nhu cầu dạy và học của học sinh giáo viên tôi có một vài đề xuất sau: + Phía nhà trường: Cần có thêm sự đầu tư cho học sinh về sách giáo khoa và đồ dùng học tập để cho học sinh có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn mượn để đảm bảo trong học tập. - Nhà trường cần có thêm phòng học để tạo điều kiện thuận lợi cho giáo viên có phòng để phụ đạo cho học sinh. - Đầu tư thêm các máy vi tính và thiết bị có liên quan để giáo viên giảng dạy theo giáo án điện tử. - Sân chơi và có những đồ dùng phục vụ cho hoạt động ngoài giờ. * Trên đây là một số ý kiến nhỏ xuất phát từ tình hình dạy học thực tế tôi rút ra kinh nghiệm và thấy cũng mang lại những dấu hiệu tốt trong quá trình phụ đạo cho những học sinh yếu kém. Kính mong sự góp ý và chỉ đạo của các thầy cô./ . ĐẶT VẤN ĐỀ 1 I/ Lý do chọn đề tài 1 II/ Nguyên nhân 2 III/ Hoạt động tư duy của học sinh yếu kém có những biểu hiện 3 IV/ Biện pháp thực hiện 4 V/ Kết quả đạt được 9 B- BÀI HỌC KINH NGHIỆM 10 C-Ý KIẾN ĐỀ XUẤT 10
Tài liệu đính kèm: