Phân môn kể chuyện ở tiểu học có một vị trí quan trọng. Nó góp phần bồi dưỡng tâm hòn, đem lại niềm vui, trau dồi vốn sống và vốn văn học, phát triển tư duy và ngôn ngữ cho học sinh. Ngoài ra nó còn nhằm nâng cao năng lực trí tuệ, đồng thời rèn luyện cho các em khả năng diễn đạt bằng ngôn ngữ. Chính vì vậy tiết kể chuyện đòi hỏi giáo viên vừa biết kể chuyện hấp dẫn, vừa biết dạy cho học sinh tập nói - tập kể chuyện và phát triển ngôn ngữ, bước đầu tập dùng ngôn ngữ của bản thân để diễn tả (tập kể chuyện). Qua mỗi tiết kể chuyện, học sinh được tiếp xúc với một văn bản truyện kể khá lý thú, cảm nhận được nội dung và thu hoạch được những bài học bổ ích. nhưng điều quan trọng hơn là các em học được cách dùng từ ngữ, câu văn để diễn đạt một ý, liên kết các ý trong một đoạn, một bài. Đây chính là yêu cầu rèn kỹ năng nói cho học sinh.
Chương trình cũ, giờ kể chuyện giáo viên kể mẫu xong chỉ có các câu hỏi như: Câu chuyện này có mấy nhân vật? là những nhân vật nào? để cho các em nhớ lại cốt truyện, sau đó là để các em kể lại theo đoạn và cả câu chuyện. Với hình thức dạy kể chuyện theo chương trình cũ, nhiều khi học sinh không thể nắm bắt được cốt truyện ngay trên lớp, trừ một số em đã đọc truyện đó ở nhà một hai lần. Do đó hạn chế kỹ năng kể lại và nhận xét bạn kể của các em. Điều đó cũng ảnh hưởng đến việc rèn khả năng nghe, nói cho học sinh.
Cái mới ở phân môn kể chuyện trong bộ SGK mới là không có quyển Truyện kể dùng riêng cho các giờ Kể chuyện. Trên lớp, học sinh chỉ kể lại hoặc dựng lại dưới hình thức hoạt cảnh những câu chuyện đã học trong tiết tập đọc đầu tiên trong tuần.
Phòng Giáo dục-Đào tạo quận Đống Đa ------------------ Sáng kiến kinh nghiệm Tên đề tài Áp dụng một số biện pháp để rèn kỹ năng nói trong giờ kể chuyện cho học sinh lớp 2 “chương trình mới” Người viết : Nguyễn Thị Thành Trường Tiểu học Cát linh Năm học 2004 - 2005 Phần I: Lý do chọn đề tài Phân môn kể chuyện ở tiểu học có một vị trí quan trọng. Nó góp phần bồi dưỡng tâm hòn, đem lại niềm vui, trau dồi vốn sống và vốn văn học, phát triển tư duy và ngôn ngữ cho học sinh. Ngoài ra nó còn nhằm nâng cao năng lực trí tuệ, đồng thời rèn luyện cho các em khả năng diễn đạt bằng ngôn ngữ. Chính vì vậy tiết kể chuyện đòi hỏi giáo viên vừa biết kể chuyện hấp dẫn, vừa biết dạy cho học sinh tập nói - tập kể chuyện và phát triển ngôn ngữ, bước đầu tập dùng ngôn ngữ của bản thân để diễn tả (tập kể chuyện). Qua mỗi tiết kể chuyện, học sinh được tiếp xúc với một văn bản truyện kể khá lý thú, cảm nhận được nội dung và thu hoạch được những bài học bổ ích... nhưng điều quan trọng hơn là các em học được cách dùng từ ngữ, câu văn để diễn đạt một ý, liên kết các ý trong một đoạn, một bài. Đây chính là yêu cầu rèn kỹ năng nói cho học sinh. Chương trình cũ, giờ kể chuyện giáo viên kể mẫu xong chỉ có các câu hỏi như: Câu chuyện này có mấy nhân vật? là những nhân vật nào? để cho các em nhớ lại cốt truyện, sau đó là để các em kể lại theo đoạn và cả câu chuyện. Với hình thức dạy kể chuyện theo chương trình cũ, nhiều khi học sinh không thể nắm bắt được cốt truyện ngay trên lớp, trừ một số em đã đọc truyện đó ở nhà một hai lần. Do đó hạn chế kỹ năng kể lại và nhận xét bạn kể của các em. Điều đó cũng ảnh hưởng đến việc rèn khả năng nghe, nói cho học sinh. Cái mới ở phân môn kể chuyện trong bộ SGK mới là không có quyển Truyện kể dùng riêng cho các giờ Kể chuyện. Trên lớp, học sinh chỉ kể lại hoặc dựng lại dưới hình thức hoạt cảnh những câu chuyện đã học trong tiết tập đọc đầu tiên trong tuần. Như vậy hình thức câu hỏi và bài tập sẽ chi phối phương pháp dạy học trong giờ kể chuyện. ở chương trình mới, trong giờ kể chuyện giáo viên chỉ là người điều khiển, hướng dẫn, còn học sinh là người chủ đạo trong giờ học đó. Các em sẽ phải làm việc nhiều hơn, nghĩa là phải nói nhiều hơn và nghe chăm chú hơn để nhận xét bạn kể. Do các câu chuyện tương đối ngắn lại phân nhỏ ra làm nhiều đoạn, cho nên trong một tiết dạy học kể chuyện, số lượng học sinh phải kể lại, phải nhận xét bạn kể lại cũng rất nhiều. Với cách dạy học như thế công việc của giáo viên sẽ nhẹ nhàng hơn so với cách dạy của chương trình cũ. Xuất phát từ thực tế trên, tôi đã chọn đề tài: “áp dụng một số biện pháp để rèn kĩ năng nói trong giờ kể chuyện cho học sinh lớp 2”. Phần II: Cơ sở thực tiễn để giải quyết đề tài Sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa của đất nước đòi hỏi phải đổi mới chương trình giáo dục phổ thông. Nhân tố quyết định thắng lợi là nguồn lực con người Việt Nam trên cơ sở mặt bằng dân trí được nâng cao, cho nên trước hết phải chăm lo phát triển nguồn lực con người, chuẩn bị lớp người lao động có những phẩm chất và năng lực phù hợp với yêu cầu phát triển đất nước trong giai đoạn mới. Điều này cần được bắt đầu từ giáo dục phổ thông. Năm 2003 - 2004 Bộ Giáo dục và Đào tạo đã áp dụng thay sách giáo khoa lớp 2 trên toàn quốc. ở chương trình tiểu học mới, phân môn kể chuyện có mối quan hệ gắn bó với các phân môn khác như Tập đọc, Tập làm văn. Nó có sự gắn bó không chỉ ở sự phân bố giờ học mà còn ở nội dung dạy, thể hiện rõ quan điểm tích hợp trong việc xây dựng chương trình ở chương trình tiểu học mới, tạo ra một phong cách mới trong dạy học phân môn kể chuyện. Việc lấy văn bản ở bài Tập đọc làm ngữ liệu cho giờ kể chuyện, giúp giáo viên tiết kiệm được khá nhiều thời gian, giúp học sinh tìm hiểu truyện; ghi nhớ cốt truyện. Do đó, chương trình đã dành được nhiều thời gian cho việc rèn kỹ năng nói cho học sinh. Như chúng ta đã biết, việc rèn luyện kỹ năng nói cho học sinh nhằm đáp ứng mục tiêu giáo dưỡng mà chương trình đề ra là một việc làm không dễ dàng, đòi hỏi phải có sự đầu tư về thời gian và sự phối hợp chặt chẽ giữa các phân môn. Kể chuyện không phải là phân môn duy nhất có nhiệm vụ rèn kỹ năng nói. Vì vậy chương trình Tiếng Việt tạo ra mối quan hệ giữa phân môn kể chuyện với phân môn Tập đọc và Tập làm văn là một việc làm khoa học. Kể chuyện là khả năng sử dụng ngôn ngữ ở dạng nói có tính nghệ thuật. Đây là một dạng đặc biệt của đối thoại. Thực tế cho thấy kể chuyện có một sức hấp dẫn kỳ lạ, đặc biệt với học sinh lứa tuổi tiểu học. Sức hấp dẫn đó không hề giảm đi dù câu chuyện đã được các em đọc trước nhiều lần. Bởi lẽ khi kể một câu chuyện, người kể không trình bày nguyên văn một bản viết hay đọc lại văn bản đó, mà lúc này người kể nhập vào một thế giới, khác với thế giới đang sống, đó là thế giới của câu chuyện. Trong câu chuyện ấy, người kể lúc là người dẫn chuyện, lúc lại là nhân vật này hoặc nhân vật khác. Người kể thể hiện tâm trạng của những nhân vật khác nhau, khi thì vui sướng, hả hê, lúc lại buồn rầu, lo lắng. Như vậy, kể chuyện thực sự mang tính tổng hợp. Nó sử dụng các hiểu biết và kĩ năng dùng từ, đặt câu kĩ năng nghe, nói Tiếng việt, kĩ năng trình bày trước công chúng. Nói cách khác đó là khả năng vận dụng những hiểu biết về ngôn ngữ, lý thuyết sản sinh lời nói và sự hiểu biết về văn học... vào việc kể chuyện. Như vậy là học sinh đã được rèn luyện một hoạt động kĩ năng kể chuyện, kĩ năng giao tiếp bằng lời của mình. Hệ thống các kĩ năng kể chuyện cũng chính là hệ thống hoạt động sản sinh lời nói nhưng ở dạng kĩ năng sản sinh văn bản mới. Như vậy trên cơ sở hiểu biết về lý thuyết, lời nói, chúng ta có thể ứng dụng để hướng dẫn học sinh hình thành những kĩ năng kể chuyện, giúp các em kể tốt hơn và cũng là rèn luyện cho các em khả năng diễn đạt khúc triết, lưu loát, ứng xử nhanh nhẹn, thông minh. Một trong những lý do khiến trẻ rất thích giờ Kể chuyện là các em được kể chuyện cho người khác nghe. Các nhà nghiên cứu cũng cho thấy rằng: trẻ có nhu cầu rất lớn trong việc giao lưu với bạn, san sẻ những thu nhận mới lạ của mình. Vì thế, kể lại cho cô, bố mẹ, ông bà... nghe là một nhu cầu của học sinh tiểu học. Để giúp các em thỏa mãn nhu cầu đó, ngoài việc vận dụng những hiểu biết về ngôn ngữ, lý thuyết sản sinh lời nói, giáo viên cần giúp học sinh vận dụng những hiểu biết về văn học, vận dụng năng lực cảm thụ văn học để lựa chọn cho mình giọng kể phù hợp. Ví dụ các em nhận biết được trong câu chuyện đâu là lời thoại, đâu là lời dẫn chuyện, các em sẽ có giọng kể khác nhau. Hay nếu các em cảm thụ tốt, hiểu được tâm trạng của các nhân vật, tính cách, hoàn cảnh của họ thì các em sẽ tìm được giọng điệu thích hợp với từng tâm trạng, từng tích cách mà có khi người lớn khó có thể hình dung được. Như vậy, trong giờ kể chuyện, hầu như học sinh được phát huy tối đa khả năng nói của mình. Ngoài ra, để hình thành kỹ năng kể chuyện cho học sinh còn phụ thuộc vào phương pháp, hình thức tổ chức của giáo viên. Phân môn kể chuyện của chương trình tiểu học mới đã rất tiến bộ khi đưa vào những phương pháp, hình thức tổ chức phù hợp cho việc rèn luyện kĩ năng nói của học sinh. Chẳng hạn về phương pháp: có phương pháp kể chuyện bằng tranh, phương pháp đàm thoại, phương pháp nhập vai, phân vai. Về hình thức tổ chức: hình thức lớp - bài, hình thức học theo nhóm... trong đó hình thức học theo nhóm là chủ yếu. Hình thức học này giúp học sinh bình tĩnh, tự tin hơn và mạnh dạn nói ra ý kiến của mình. ở đây, học sinh được tham gia nói nhiều hơn, được phát huy khả năng nói của mình. Phần III: Một số biện pháp rèn luyện kĩ năng nói cho học sinh qua phân môn kể chuyện lớp 2, chương trình mới. Trong cấu trúc SGK Tiếng Việt lớp 2, các câu chuyện được phân bố như sau: Thể loại truyện Số lượng Tên truyện Thần thoại Truyền thuyết 2 Sơn Tinh, Thuỷ Tinh Chuyện quả bầu Cổ tích và cổ tích mới 5 Sự tích cây vú sữa Hai anh em Bà cháu Tìm ngọc Ông Mạnh thắng Thần Gió Cười 0 Ngụ ngôn 6 Có công mài sắt có ngày nên kim Chuyện bốn mùa Một trí khôn hơn trăm trí khôn Kho báu Câu chuyện bó đũa Quả tim khỉ Danh nhân lịch sử 3 Ai ngoan sẽ được thưởng Chiếc rễ đa tròn Bóp nát quả cam Khoa học 0 Người thực, việc thực 0 Sinh hoạt 10 Phần thưởng Bím tóc đuôi sam Chiếc bút mực Mẩu giấy vụn Người thầy cũ Người làm đồ chơi Bông hoa niềm vui Sáng kiến của bé Hà Con chó nhà hàng xóm Những quả đào Đồng thoại 3 Bạn của Nai nhỏ Chim Sơn ca và bông cúc trắng Bác sĩ Sói. 1. Rèn luyện kĩ năng nói qua phương pháp, hình thức tổ chức dạy học: Theo luật giáo dục về yêu cầu nội dung, phương pháp giáo dục tiểu học thì: phương pháp giáo dục tiểu học phải phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động của từng học sinh, phù hợp với đặc điểm của từng lớp học, môn học, bồi dưỡng phương pháp tự học, rèn luyện kĩ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn, tác động đến tình cảm, đem lại niềm vui, hứng thú cho học sinh. Đổi mới phương pháp dạy học là một khâu quan trọng không thể thiếu được trong quá trình giáo dục. Đổi mới phương pháp dạy học được thể hiện đậm nét trong chương trình mới ở chỗ: Chương trình tiểu học mới tập trung vào cách dạy học, đặc biệt là giúp học sinh biết cách học và có nhu cầu tự học, khuyến khích dạy học cá nhân và dạy h ọc hợp tác để phát triển năng lực theo tốc độ học, khả năng của từng học sinh. Là một phân môn nằm trong chương trình tiểu học mới, phân môn kể chuyện lớp 2 cũng được dạy theo phương pháp mới. Trong giờ kể chuyện, giáo viên chỉ nêu đầu bài, yêu cầu và mục đích của tiết kể chuyện. Học sinh tự kể (cá nhân) hoặc nhóm theo các yêu cầu đó. Giáo viên chỉ là người đạo diễn, hướng dẫn, chỉ đạo, còn học sinh là diễn viên, là người thực hiện, chủ đạo trong tiết kể chuyện đó. Giáo viên chỉ kể mẫu một lần, thậm chí giáo viên không cần kể mẫu, mà gọi một học sinh khá kể mẫu, cho học sinh xung phong kể mẫu. Còn lại các học sinh khác lần lượt kể theo đoạn ... theo hai hình thức: kể theo tranh, kể sáng tạo phần mở đầu. + Kể theo tranh: kể đoạn 1, 2. + Dùng hệ thống câu hỏi gợi ý kể lại đoạn 3. + Kể sáng tạo phần mở đầu : theo cách mở đầu trong sách giáo khoa. B. Đồ dùng dạy học: - Tranh minh hoạ(đoạn 1, đoạn 2 trong sách giáo khoa). - Ba bảng phụ ghi lại gợi ý của đoạn 1, đoạn 2, đoạn 3 (như sách học sinh). C.Các hoạt động dạy học chủ yếu: Hoạt động của giáo viên Hoạt động của học sinh 1.Kiểm tra bài cũ (7phút). Trong giờ kể chuyện trước, các con đã được kể câu chuyện “Chiếc rễ đa tròn.” Câu chuyện gồm 3 đoạn, cô mời 3 bạn kể nối tiếp 3 đoạn của câu chuyện. - Giáo viên nhận xét, cho điểm từng học sinh. - Câu chuyện “Chiếc rễ đa tròn” nói lên điều gì? - Giáo viên nhận xét, cho điểm. - Giáo viên nhận xét việc học bài cũ của học sinh. - Ba học sinh kể nối tiếp 3 đoạn của câu chuyện. - Câu chuyện nói lên tình thương bao la của Bác Hồ đối với mọi người, mọi vật sống xung quanh. Một chiếc rễ đa tròn rơi xuống đất, Bác cũng thương, muốn trồng lại cho rễ mọc thành cây, nhưng cây Bác muốn trồng mọc uốn theo hình vòng tròn làm chỗ vui chơi cho các cháu thiếu nhi. 2.Bài mới: a. Giới thiệu bài (2 phút). -Trong tiết Tập đọc trước, các con đã được học bài tập đọc gì? - Trong giờ kể chuyện hôm nay, các con sẽ tập kể lại đoạn 1, đoạn 2 theo tranh, đoạn 3 theo gợi ý hướng dẫn trong sách giáo khoa. Sau đó kể lại toàn bộ câu chuyện theo cách mở đầu mới. Các con mở sách Tiếng Việt trang 120 cho cô. - Giáo viên ghi tên đầu bài lên bảng. b.Bài mới: * Dựa theo tranh, kể lại đoạn 1 và đoạn 2 của Chuyện quả bầu. + Kể lại đoạn 1 - Giáo viên treo tranh (thể hiện nội dung của đoạn 1). - Nhìn vào tranh, ai cho cô biết, tác giả vẽ mấy nhân vật trong bức tranh này? Đó là những nhân vật nào? (Giáo viên ghi bảng: ghi vào phần gợi ý). - Con Dúi làm gì khi bị hai vợ chồng người đi rừng bắt? (Giáo viên ghi bảng: ghi vào phần gợi ý: Con Dúi lạy van xin tha...) - Con Dúi mách điều bí mật gì? (Giáo viên ghi bảng: ghi vào phần gợi ý...) - Đoạn này nên kể với giọng thế nào? - Dựa vào tranh và những gợi ý trên, cô mời các con kể lại đoạn 1 của câu chuyện. - Giáo viên gợi ý học sinh nhận xét cách bạn kể: kể đúng, đủ ý chưa, đã bám sát vào tranh chưa? Giọng kể có thích hợp không, bạn dùng từ có thích hợp không? - Giáo viên nhận xét, cho điểm. + Kể lại đoạn 2 - Nhìn vào tranh cho cô biết: bức tranh vẽ cảnh gì? Hãy tả lại cảnh đó. - Như vậy, hai vợ chồng họ đã làm cách nào để thoát khỏi nạn lụt? (Giáo viên ghi bảng: vào phần gợi ý...). - Bài Chuyện quả bầu. - Học sinh làm theo lời giáo viên. -Học sinh quan sát tranh. - Trong tranh vẽ 3 nhân vật: Con Dúi, vợ chồng người đi rừng. - Con Dúi lạy van xin tha, hứa sẽ nói điều bí mật. - Con Dúi mách: sắp có mưa to, gió lớn làm ngập lụt khắp miền, khuyên hai vợ chồng cách phòng lụt. - Giọng kể khoan thai, chậm rãi. - Hai học sinh kể. -Học sinh nhận xét. - Bức tranh vẽ cảnh sau nạn lụt. Tác giả vẽ cảnh hai vợ chồng vừa bước ra từ qủa bầu. Họ thấy cảnh vật xung quanh đều tàn tạ, héo úa. - Họ nghe lời khuyên của Dúi: lấy khúc gỗ to, khoét rỗng, chuẩn bị thức ăn đủ bảy ngày, bảy đêm, rồi chui vào đó, bịt kín miệng gỗ bằng sáp ong, hết hạn bảy ngày mới chui ra. - Đoạn này chúng ta nên kể với giọng như thế nào? - Lên giọng khi kể về trận lụt xảy ra bất ngờ, thấp giọng khi kể về cảnh vật sau trận lụt. - Cô mời một bạn kể lại đoạn 2 theo gợi ý trên, chú ý thể hiện đúng giọng kể. - Hai học sinh kể lại - Giáo viên gọi học sinh nhận xét bạn kể: đúng, đủ ý chưa? giọng kể có phù hợp không? - Học sinh nhận xét - Giáo viên nhận xét cho điểm + Kể lại đoạn 3: - Khi sinh con, việc kỳ lạ gì đã xảy ra đối với người vợ? - Người vợ sinh ra quả bầu. - Sau đó câu chuyện diễn biến thế nào? - Hai vợ chồng đi làm nương về, nghe thấy tiếng cười đùa trên bếp. Lấy làm lạ, họ lấy bầu xuống, áp tai nghe thì thấy tiếng lao xao. Người vợ lấy que đốt thành cái dùi, nhẹ nhàng dùi quả bầu. Từ trong quả bầu, những con người bé nhỏ nhảy ra. - Giáo viên treo bảng phụ gợi ý đoạn 3 - Theo các con, đoạn 3 nên kể với giọng như thế nào? - Kể với giọng trầm, chậm, thể hiện sự kỳ lạ xảy ra đối với hai vợ chồng; dừng lại một lúc trước đoạn “Các con người bé nhỏ nhảy ra từ trong quả bầu” để cho người nghe hồi hộp. - Con hãy dựa vào gợi ý, dùng giọng kể thích hợp để kể lại đoạn 3 - Hai học sinh kể lại đoạn 3 - Giáo viên gọi học sinh nhận xét bạn kể: đúng, đủ ý chưa? giọng kể có thích hợp không? - Học sinh nhận xét - Giáo viên nhận xét cho điểm - Vừa rồi các con đã được kể lại từng đoạn truyện. Bây giờ cô mời 3 bạn kể nối tiếp 3 đoạn truyện. - 3 học sinh kể nối tiếp 3 đoạn truyện - Học sinh nhận xét bạn kể: ý, trình tự, giọng kể. - Học sinh nhận xét - Ai cho cô biết, câu chuyện này muốn nói với chúng ta điều gì? - Câu chuyện giới thiệu nguồn gốc các dân tộc anh em trên đất nước Việt Nam . - Câu chuyện giúp chúng ta hiểu điều gì? - Khẳng định các dân tộc anh em một nhà, cùng một nguồn gốc. * Kể lại toàn bộ câu chuyện theo cách mở đầu mới (kể sáng tạo): Đất nước ta có 54 dân tộc anh em. Mỗi dân tộc có tiếng nói riêng, có cách ăn mặc riêng. Nhưng tất cả các dân tộc ấy đều được sinh ra từ một mẹ. Chuyện kể rằng... - Vừa rồi các con đã kể lại được toàn bộ câu chuyện, bây giờ các con cũng sẽ kể lại câu chuyện này nhưng với mở đầu mới. Khi kể, các con có thể dùng phần chú giải trong bài Tập đọc để thay thế, thêm bớt từ trong truyện. - Hai học sinh kể lại. - Cô mời một bạn kể lại truyện theo cách cô đã hướng dẫn trên. - Giáo viên gọi học sinh nhận xét bạn kể: đúng, đủ ý chưa? bạn có kể theo đúng cách trên không? Bạn đã thay đổi, thêm bớt từ nào? Bạn thay từ, dùng từ như thế đã phù hợp chưa? - Học sinh nhận xét bạn kể - Giáo viên nhận xét, cho điểm 3. Củng cố (7 phút): - Vừa rồi, các con đã được kể câu chuyện Chuyện quả bầu, câu chuyện muốn nói với chúng ta điều gì? - Câu chuyện nói về nguồn gốc các dân tộc Việt Nam - Câu chuyện giúp chúng ta hiểu điều gì? - Câu chuyện giúp chúng ta hiểu: Các dân tộc trên đất nước ta đều là anh em, phải yêu quý các dân tộc anh em. - Bây giờ, 4 tổ mỗi tổ cử một bạn đại diện thi kể lại đoạn 1, đoạn 2 theo cách mở đầu mà cô đã hướng dẫn. Khi kể các con chú ý kể với giọng phù hợp, có thể kết hợp sử dụng điệu bộ để diễn tả cho câu chuyện thêm sinh động - Đại diện 4 tổ lần lượt kể lại đoạn 1, đoạn 2 của câu chuyện. - Giáo viên gọi học sinh nhận xét nhóm bạn kể: đúng, đủ ý không? Giọng kể có phù hợp không? - Học sinh nhận xét - Giáo viên nhận xét, cho điểm - Bạn nào có thể đặt tên khác cho câu chuyện? - Truyện các dân tộc Việt Nam Các dân tộc Việt Nam là anh em. - Giáo viên nhận xét chung giờ học 4. Dặn dò (1 phút): - Dặn học sinh kể lại câu chuyện cho bạn bè và người thân nghe (có thể kể bằng lời của mình). Qua giáo án trên tôi thấy: nếu được giáo viên hướng dẫn cách nghe, nêu trước những yêu cầu nhận xét trước khi kể chuyện, thì các em sẽ rất chú ý nghe bạn kể và đưa ra được những nhận xét nhanh, chính xác hơn so với cách sau khi học sinh kể, giáo viên mới yêu cầu nhận xét. Phần IV: Tự đánh giá kết quả thực hiện Việc áp dụng một số biện pháp để rèn kỹ năng nói trong giờ kể chuyện cho học sinh lớp 2 theo chương trình SGK mới tôi thấy rất hiệu quả. Qua hai năm thực hiện việc thay sách, tôi thấy học sinh ở lớp 2 do tôi chủ nhiệm đã có rất nhiều tiến bộ. ở mỗi tiết kể chuyện, các em đã biết kể lại câu chuyện ở các mức độ: kể bằng lời trong văn bản, kể bằng lời của mình, kể bằng lời của nhân vật trong câu chuyện. Hầu hết các em đều kể rất tốt, lưu loát, biết thay đổi giọng kể phù hợp với nội dung câu chuyện, bước đầu biết sử dụng điệu bộ, cử chỉ để hỗ trợ cho lời kể. Khi kể, các em biết thay thế, thêm bớt các từ ngữ làm cho câu chuyện sinh động hơn. Hầu hết học sinh đã biết trước được nội dung của câu chuyện nên có rất nhiều thời gian để rèn kĩ năng nói cho học sinh. Đặc biệt khi dùng dàn ý hoặc câu hỏi, rất ít em phải nhìn vào dàn ý đó để kể lại. Với phương châm lấy học sinh làm trung tâm, giáo viên là người chỉ đạo, hướng dẫn, còn học sinh là người thực hiện triển khai công việc, tôi nghĩ trong giờ dạy, giáo viên nên tạo ra trong lớp học một không khí sôi nổi thoải mái. Giáo viên nên dùng các hình thức động viên, khuyến khích các em, đặc biệt là đối với những em dụt dè, chưa tự tin. Bởi lẽ ai cũng biết, hoạt động giao tiếp là hoạt động có ý nghĩa sống còn đối với xã hội. Giao tiếp đối với học sinh tiểu học là vô cùng cần thiết. Việc rèn kĩ năng nói trong giờ kể chuyện cũng vậy, nó giúp các em khi tiếp xúc với bạn bè, với thầy cô, với người thân một cách tự nhiên hơn, thân mật hơn và tự tin hơn rất nhiều. Phần V: Phạm vi áp dụng Qua đây tôi cũng thấy, việc rèn kỹ năng nói cho học sinh qua phân môn kể chuyện là rất cần thiết và quan trọng. Việc áp dụng một số biện pháp để rèn kĩ năng nói cho học sinh nêu trên có thể áp dụng đối với tất cả các tiết kể chuyện, các đối tượng học sinh từ lớp 1 đến lớp 5. Tuy nhiên, đối với những học sinh bị ngọng bẩm sinh thì việc thực hiện sẽ gặp khó khăn hơn. Trên đây là kinh nghiệm tôi đã thực hiện và áp dụng trong quá trình dạy học. Muốn làm tốt được điều này đòi hỏi mỗi giáo viên chúng ta phải luôn chịu khó tự tìm tòi học hỏi và đặc biệt phải có lòng yêu nghề, mến trẻ, nhất định chúng ta sẽ tìm được biện pháp thích hợp để rèn kĩ năng nói cho học sinh trong tất cả các tiết học, nhất là tiết kể chuyện. Hà Nội, tháng 4 năm 2005 Người viết Nguyễn Thị Thành A Mục lục Trang Phần I: Lý do chọn đề tài 2 Phần II: Cơ sở thực tiễn để giải quyết đề tài 3 Phần III: Một số biện pháp rèn luyện kĩ năng nói cho học sinh qua phân môn kể chuyện lớp 2 - chương trình mới 5 1. Rèn luyện kĩ năng nói qua phương pháp, hình thức tổ chức dạy học 6 2. Rèn luyện kĩ năng nói qua hình thức kể chuyện theo tranh 9 3. Rèn luyện kĩ năng nói qua hình thức kể chuyện bằng hình thức hội thoại, giao tiếp. 11 4. Rèn luyện kĩ năng nói qua hình thức kể chuyện phân vai 15 Giáo án minh họa 16 Phần IV: Tự đánh giá kết quả thực hiện 21 Phần V: Phạm vi áp dụng
Tài liệu đính kèm: