Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp “Rèn luyện kỹ năng viết đúng chính tả” cho học sinh lớp 2

Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp “Rèn luyện kỹ năng viết đúng chính tả” cho học sinh lớp 2

A. PHẦN MỞ ĐẦU

 -----    -----

I/.NHẬN THỨC VẤN ĐỀ VÀ LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI:

1/. Nhận thức vấn đề:

Hiện nay, vấn đề đổi mới phương pháp dạy học theo hướng phát huy tính tích cực của học sinh là một vấn đề được ngành giáo dục đặt biệc quan tâm chú trọng. Vì môn học Tiếng Việt, trong đó có phân môn chính tả là một bộ môn giáo dục toàn diện về lĩnh vực đọc, viết. Do đó, học sinh cần có vốn sống, vốn hiểu biết nhiều về ngôn ngữ, giúp các em sẽ chủ động được những vấn đề nhận thức một cách có khoa học, sáng tạo, tiếp thu kiến thức nội dung bài học một cách dễ dàng. Tuy nhiên, vấn đề cốt lõi là chúng ta phải sử dụng ngôn ngữ nói và viết sau cho đúng chuẩn, đảm bảo hiệu quả trong giao tiếp.

 

doc 21 trang Người đăng phuongtranhp Lượt xem 816Lượt tải 1 Download
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp “Rèn luyện kỹ năng viết đúng chính tả” cho học sinh lớp 2", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
KINH NGHIỆM CÔNG TÁC GIÁO DỤC
-------- š ¯ › --------
Tên đề tài: “Một số biện pháp rèn luyện kỹ năng viết đúng chính tả cho học sinh lớp 2”.
Hò và tên: NGUYỄN QUỐC VIỆT
Ngày, tháng, năm Sinh: 19/06/1971
Chức vụ: Giáo viên dạy lớp 2.
Đơn vị công tác: Trường Tiểu học Đông Thái 1.
A. PHẦN MỞ ĐẦU
 ----- š & › -----
I/.NHẬN THỨC VẤN ĐỀ VÀ LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI:
1/. Nhận thức vấn đề:
Hiện nay, vấn đề đổi mới phương pháp dạy học theo hướng phát huy tính tích cực của học sinh là một vấn đề được ngành giáo dục đặt biệc quan tâm chú trọng. Vì môn học Tiếng Việt, trong đó có phân môn chính tả là một bộ môn giáo dục toàn diện về lĩnh vực đọc, viết. Do đó, học sinh cần có vốn sống, vốn hiểu biết nhiều về ngôn ngữ, giúp các em sẽ chủ động được những vấn đề nhận thức một cách có khoa học, sáng tạo, tiếp thu kiến thức nội dung bài học một cách dễ dàng. Tuy nhiên, vấn đề cốt lõi là chúng ta phải sử dụng ngôn ngữ nói và viết sau cho đúng chuẩn, đảm bảo hiệu quả trong giao tiếp.
Đổi mới phương pháp dạy học là một điều phù hợp với xu thế phát triển của xã hội, nhất là đối với ngành giáo dục. Trong khi yêu cầu xã học đối với người học ngày càng cao, nội dung ngày càng phát triển phong phú, đa dạng cả về số lượng lẫn chất lượng, phải phụ thuộc vào điều kiện của từng lúc, từng nơi mà áp dụng phương pháp dạy học và hình thức dạy học của hiện nay là hoạt động hoá, phần lĩnh hội kiến thức và nhận thức của học sinh, phương pháp mới của giáo viên, là tạo điều kiện cho học sinh tự hoạt động, tự khám phá, tham gia mạnh vào việc thảo luận, tiếp thu tri thức mới một cách toàn diện thông qua các phương tiện 
dạy học và cách học hiện đại. 
 Nếu học sinh không hiểu được ý nghĩa của tiếng Việt thì các em không cảm nhận được cái hay, cái đẹp của bài văn, bài thơ và khó hòa mình vào cuộc sống. Hơn nữa, tiếng Việt cũng ảnh hưởng rất lớn đến trình độ học toán và các môn học khác. Vì thế, làm cách nào để rèn kỹ năng cho học sinh như: Nghe, nói, đọc, viếtnhằm giúp các em sử dụng tiếng Việt có hiệu quả trong học tập và giao tiếp hằng ngày. Trong môn tiếng Việt, thì phân môn chính tả có vị trí quan trọng trong cơ cấu chương trình, nhằm giúp các em hoàn thiện kỹ năng viết đúng chính tả. Nhưng trên thực tế còn nhiều học sinh chưa nắm vững quy tắt viết đúng chính tả và hay viết sai, thậm chí một số em khi viết chính tả (Tập chép) nhìn vào sách giáo khoa hay nhìn bảng viết mà vẫn thường xuyên viết sai lỗi chính tả, bảng thân tôi luôn quan tâm để giúp các em viết tốt hơn. Từ đó, các em sẽ học tốt hơn môn tiếng Việt và các môn học khác.
2/.Lý do chọn đề tài:
Trong những năm học vừa qua, được Ban giám hiệu nhà trường phân công dạy lớp 2, qua quá trình dạy học, theo sự chỉ đạo của Phòng giáo dục và đào tạo. Bản thân tôi luôn luôn ấp ủ trong tâm tưởng của mình bâng khoăn suy nghỉ và luôn trao đổi, học hỏi, lĩnh hội kiến để nâng cao hiệu quả trong công tác giảng dạy của mình trong các môn học, đặc biệt là môn chính tả. Vì môn học này, đòi hỏi người giáo viên phải hiểu biết nhiều về ngôn ngữ tiếng việt, để truyền thụ kiến thức tốt cho học sinh, tiếp thu bài một cách khoa học, nâng cao hiệu quả và chất lượng bộ môn. Từ đó, bản thân đã áp dụng bằng nhiều biện pháp khác nhau để “Làm thế nào để giúp cho học sinh học tốt chính tả một cách có chất lượng và thu hút sự đam mê, hứng thú trong môn học này, tránh sự nhàm chán?”.
Chính vì thế, bản thân tôi tự hoàn thiện phẩm chất, nhân cách của người thầy giáo, trao dồi lòng yêu nghề, yêu thương học sinh, quan tâm đến mọi khía cạnh của học sinh. Nhưng quan trọng nhất, là giúp các em rèn luyện tốt: Nghe, nói, đọc, viếtĐòi hỏi vốn kiến thức, sự hiểu biết của giáo viên và học sinh, vì môn học này nhằm hình thành cho các em đọc đúng, viết đúng. Vì thế, người giáo viên trước tiên phải tự rèn luyện, suy nghỉ quyết tâm tìm tòi ra những hạn chế và các giải pháp, biện pháp mới khắc phục, để dạy tốt môn chính tả. Xã hội đã giao cho chúng ta một trách nhiệm hết sức năng nề là “Dạy chữ - Dạy người”. Dạy học, nhất là dạy học ở bậc Tiểu học, là một vấn đề hết sức quan trọng được toàn xã hội quan tâm. Nhưng chính tả là một trong những phân môn quan trọng trong tiếng Việt. Trẻ em ngay từ buổi đầu tiên đến trường, được thầy cô dạy những nét chữ đầu đời. Môn chính tả giúp học sinh về kỹ năng hiểu biết, xác định nội dung, ý nghĩa của từng câu, từng ý diễn đạt, giúp học sinh có vốn kiến thức giao tiếp xã hội ngay từ lúc còn bé. Biết diễn đại lời nói của mình bằng chữ viết đúng, cho người đọc hiểu được lời mình muốn diễn đạt. Đồng thời góp phần hình thành nhân cách cho các em sau này.
Hiện nay, hiệu quả của việc dạy học chính tả cho học sinh Tiểu học đạt chưa cao, chưa đáp ứng được yêu cầu và tầm quan trọng của nó. Bản thân tôi nghĩ rằng chúng ta cần phải rèn luyện cho học sinh nhiều hơn nữa các kỹ năng về viết chính tả một cách hợp lý, tích cực. Từ đó, tạo điều kiện giúp các em có đủ điều kiện, phương tiện học tốt hơn nữa ở chương trình các cấp học kế tiếp. Chính vì thế, tôi chọn đề tài “Một số biện pháp Rèn luyện kỹ năng viết đúng chính tả cho học sinh lớp 2”.
 B. PHẦN NỘI DUNG ĐỀ TÀI
I/.THỰC TRẠNG VẤN ĐỀ:
1/.Thực trạng tình hình:
Trong thực tế Phòng giáo dục - Đào tạo huyện đã và đang chỉ đạo chặt chẽ chương trình dạy học đạt hiệu quả tốt nhất, tối ưu nhất. Lấy đây là nội dung khởi đầu cho việc dạy và học theo tình hình hiện nay, những phương pháp mới, giúp cho học sinh hiểu bài, nắm sâu về kiến thức và học tập một cách có hứng thú, say mê hình thức thi đua học tập để đạt kết quả tốt nhất trong việc học tập của học sinh. Đồng thời gắn cho các em tự học tập và rèn luyện theo từng nội dung yêu cầu của từng bài học, tiết học. Hoạt động dạy học theo hướng phương pháp mới là một hoạt động tạo cho các em học sinh “Vừa học - vừa chơi - vừa rèn luyện”, vừa đáp ứng nhu cầu của cá nhân đồng thời đáp ứng mục tiêu của việc dạy và học.
Phương pháp dạy học theo hướng tích cực, nhìn chung là rất phù hợp với môn học chính tả, nhất là đối với học sinh lớp 2. Phương pháp này đã giúp cho học sinh dễ dàng nhận thức về nhân cách, thái độ học tập tốt, gớp phần nâng cao chất lượng học tập và rèn luyện đạo đức, từng bước nâng cao chất lượng bộ môn, xây dựng công tác giáo dục mạnh mẽ, toàn diện.
Tuy nhiên, ngày nay chúng ta phải thừa nhận rằng, việc giảng dạy cho có chất lượng, đúng phương pháp và thường xuyên đổi mới phương pháp để phù hợp với nội dung bài dạy, thì không phải người giáo viên nào cũng hiểu được nội dung và phương pháp để thực hiện tốt. Vì đối với giáo viên phải dạy đảm bảo đầy đủ các môn học, mặt dù môn chính tả, thì nội dung còn bị (Khô), nhưng chính tả là một phân môn chính trong tiếng Việt, nhưng có một số giáo viên còn xem nhẹ môn học này, chỉ dạy qua loa hình thức, cho đủ môn học, chứ không đầu tư phương pháp để nâng cao phần nhận thức và học tập của học sinh, trọng tâm là để đạt danh hiệu thi đua cuối năm. Chỉ vì một danh hiệu thi đua của bản thân mình mà đánh mất đi những cái quý giá nhất đó là “trình độ, kiến thức và quan trọng là nâng cao chất lượng chuyên môn của bản thân” và hiệu quả học tập của học sinh, chất lượng hoạt động giảng dạy của nhà trường
2/. Thuận lợi:
Từ năm 2001 việc nâng cao chất lượng giảng dạy đã được bộ giáo dục quan tâm và chỉ đạo chặt chẽ, hoạt động trọng tâm của nhà trường là việc “dạy và học”, từ đó việc nâng cao phương pháp giảng dạy góp phần cho học sinh dễ tiếp thu nội dung bài học.
- Ngày nay, Đảng và nhà nước, các ngành các cấp quan tâm ngành giáo dục, đầu từ đầy đủ trang thiết bị và cơ sở vật chất, đáp ứng đầy đủ nhu cầu trong công tác giảng dạy các bộ môn nói chung và môn chính tả nói riêng.
- Đa số giáo viên ngày nay, có tinh thần học tập, nâng cao trình độ nhận thức, tích cực nghiên cứu, tham khảo các tài liệu có liên quan đến chương trình dạy học ở trường. Nhanh chóng nắm bắt được những kỹ năng, kỹ xảo và kỷ thuật cơ bản của các phân môn trong đó có môn chính tả. 
- Nhà trường luôn tạo điều kiện thuận lợi tốt và thường xuyên bồi dưỡng, cho giáo viên học tập để nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ, đặc biệt là học sinh có nhiều cố gắng, có ý thức trong quá trình tham gia học tập ở trường.
- Môn chính tả là một môn rất gần gũi với các em, nó tạo cho các hiểu biết nhiều về từ ngữ tiếng Việt, đọc thông viết thạo thì các em mới học tập tốt được các môn học khác. Học sinh hoàn chỉnh nội dung và phương pháp học chính tả. Tiếp tục hình thành thói quen viết đúng tiếng Việt văn hóa, tiếng Việt chuẩn mực. Qua đó giúp học sinh phát triển năng lực, trí tuệ và phát huy tính tích cực trong việc sử dụng chính tả để viết văn bản một cách phù hợp và chính xác, đảm bảo cho người đọc và người viết cùng hiểu thống nhất cùng nội dung của văn bản.
- Thực hiện phương pháp nâng cao công tác giáo dục, trong môn học, nhằm giúp học sinh quan sát, liên hệ thực tế rút ra được nguồn tri thức mới mà các em đã thường gặp trong cuộc sống hằng ngày.
3/. Khó khăn:
 Môn chính tả là một phân môn chính trong môn tiếng Việt, Rộng về từ ngữ, kiến thức tìm hiểu nội dung bài học hẹp, nên học sinh khó tiếp thu và nắm bắt. Ngày nay chính tả là nguồn kiến thức truyền thụ của giáo viên và tìm hiểu của học sinh quá đa dạng, khó tiếp thu và lĩnh hội kiến thức.
- Đặc điểm tâm lí của học sinh còn thích ham chơi hơn thích học (Vì các em là học sinh Tiểu học, còn nhỏ hồn nhiên và hiếu động), ý thức kỹ luật chưa cao, thường làm theo ý thức cá nhân của mình, nên dẫn đến việc tiếp thu bài học còn rất chậm.
- Điều kiện về học, vì trường Tiểu học Đông Thái 1 là một trường nằm trong vùng nông thôn sâu, đặc biệt điểm trường tôi đang dạy là điểm lẻ, sự nhận biết và hiểu biết của học sinh không đồng đều, có những em có hoàn cảnh gia đình khó khăn, không mua sắm đủ dụng cụ học tập cho các em, nhất là đối với môn chính tả.
- Một số học sinh còn chưa có ý thức cao trong học tập, tuổi các em còn nhỏ, chóng nhớ, mau quên, chưa có ý thức làm chủ bản thân, việc rèn luyện ý thức còn nằm trong tình trạng bắt buộc, biểu hiện tính cách không rõ nét, từ đó cũng làm giảm chất lượng học tập của các em.
- Tuy nhà trường đã tạo điều kiện tốt cho giáo viên và học sinh, nhưng do điều kiện cơ sở vật chất ở điểm lẻ cũng còn nhiều hạn chế, nên thầy và ...  dụng một số biện pháp vừa nêu trên, tôi cảm thấy học sinh viết chính tả đã có nhiều tiến bộ hơn những năm trước và đặc biệt là bắt đầu từ đầu năm học này cho đến nay.
2.2. Đối với gia đình, phụ huynh học sinh:
- Để giảng dạy tốt các môn học, đặc biệt là môn chính tả, chúng ta cần thực hiện tốt mối quan hệ với phụ huynh học sinh, vì học chính tả là môn học gần gũi nhất với xã hội và gia đình. Việc giáo dục con người mới trong thời đại xã hội hiện nay là một việc hết sức khó khăn, đòi hỏi sự cố gắng của giáo viên và sự chăm lo của gia đình và toàn xã hội.
- Bên cạnh đó, việc giáo dục của nhà trường, cần phải có sự phối hợp giáo dục của gia đình là lực lượng giáo dục đầu tiên cho các em học sinh, vốn có những đặt trưng riêng của nó nên vấn đề đặt ra là nhà trường phải liên hệ chặt chẽ với gia đình, để đảm bảo được tính thống nhất toàn diện, thì giáo dục gia đình và nhà trường mới phát huy được hiệu quả.
3.3. Tổ chức tham quan giả ngoại:
Song bên cạnh việc giảng dạy bằng những phương pháp thực tiễn, bản thân tôi luôn sáng tạo lòng ghép vào việc thường xuyên tổ chức tham quan, giả ngoại hay tổ chức các trò chơiSử dụng như một công cụ hữu hiệu, khắc sâu kiến thức và phát triển trí tưởng tượng của học sinh, đồng thời làm cho tiết học trở nên hấp dẫn và nhẹ nhàng hơn, với các môi trường xung quanh mà các em được tham quan, giúp các em học sinh dễ thích ứng được với môi trường thực tế, mau tiếp thu bài, để giờ học đạt hiệu quả.
4.4. Sưu tầm tài liệu, tranh ảnh:
- Bên cạnh việc quan sát thực tế, bản thân tôi còn phải sưu tầm nhiều loại tranh, ảnh có trong nội dung bài học, giới thiệu cho học sinh quan sát, để các dễ nhận ra nguồn tri thức, liên hệ thực tế, động não suy nghỉ để rút ra nhận xét, kết luận chính xác, hoàn hảo về các từ ngữ mà các em đã học.
- Giáo viên cần hướng dẫn học sinh biết cách quan sát, nêu thắc mắc, tìm tòi phát hiện ra những kiến thức mới về từ ngữ phù hợp với lứa tuổi của các em cụ thể như nêu tên đúng tên, phát âm chuẩn các: Hình ảnh, vật thật và hiện tượng diễn biến hàng ngày trong xã hội.
3/. Kết quả đạt được:
Sau một thời gian giảng dạy môn môn Tiếng Việt nói chung và môn chính tả nói riêng theo các phương pháp mới như đã nêu trên, chất lượng học tập của các em học sinh tăng rất nhanh về mọi mặt “Đạo đức lối sống, tinh thần học tập, tinh thần đoàn kết, quan hệ công đồng” đặc biệt là các em viết chính tả ít mắc lỗi, tiến bộ nhiều trong đọc và viết.
- Qua các biện pháp và nội dung thực hiện, phải có tổ chức theo dõi chặt chẽ, biểu dương và khen thưởng những học sinh có tiến bộ, phê bình những học sinh còn hạn chế trong học tập và thường xuyên tổ chức tốt các đợt kiểm tra, có sơ tổng kết rõ ràng, cụ thể.
- Từng đợt kiểm tra kiến thức học sinh theo định kỳ, để đánh giá chất lượng học sinh kết quả đạt cụ thể như sau:
 - Các số liệu sau đây là điễm của phân môn chính tả của lớp 2 tôi chủ nhiệm ở năm học 2010 – 2011.
 + Khảo sát đầu năm: (Cao nhất là điểm 6).
 + Giữa học kỳ 1: (điểm cao nhất là điểm 7).
 + Cuối học kỳ 1: (điểm cao nhất là điểm 8).
 + Giữa học kỳ 2: (điểm cao nhất là điểm 9).
 + Cuối học kỳ 2: (điểm cao nhất là điểm 10).
Xép loại chung: cuối năm.
Đạt loại Giỏi: 30%, khá 60% còn lại trung bình, không có học sinh yếu kém.
C. PHẦN KẾT LUẬN
I/. Một số giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện:
- Từ những kết quả đạt được và chưa được, đối với Phòng giáo dục và Đạo tạo cần chỉ đạo, tổ chức công tác giảng dạy trong nhà trường, ngay từ đầu năm cần phải có kế hoạch chỉ đạo đổi mới phương pháp giảng dạy theo từng phân môn cho phù hợp với tình hình mới và phù hợp theo từng địa phương cụ thể.
- Thường xuyên tổ chức các lớp đào tạo về chuyên môn nghiệp vụ, để giáo viên tham gia học tập tốt, nhằm nâng cao chất lượng chuyên môn nghiệp vụ sư phạm, để công tác tốt.
- Cần phải làm rõ công tác chỉ đạo việc thực hiện, phải hết sức chặt chẽ, đồng bộ, thường xuyên, đồng thời tạo cơ chế cho các đơn vị vận dụng sáng tạo những nội dung phù hợp với điều kiện thực tế của từng nội dung của môn học và bài học.
- Từ những biện pháp nêu trên, sẽ giúp cho học sinh nắm được kỹ năng viết đúng chính tả, từ đó các em thấy được tầm quan trọng của việc viết đúng chính tả. Các em sẽ có ý thức rèn luyện kỹ năng viết đúng chính tả cho chính bản thân mình. Qua đó, các em đã có những suy nghỉ đúng đắn và cảm nhận được sự phong phú, đa dạng của Tiếng Việt, có trách nhiệm hơn trong việc rèn luyện kỹ năng học tập. Vì thế, việc tiếp thu các môn học khác cũng tiến bộ rõ rệt. Kết quả các bài kiểm tra và bài thi các môn học viết ít sai lỗi chính tả, từ đó đạt được kết quả khả quan.
II/. Bài học kinh nghiệm:
Thực hiện tốt chương trình trong công tác giảng dạy, quan trọng là việc giảng dạy đúng phương pháp, đối với người giáo viên luôn suy nghỉ, không ngừng sáng tạo mục tiêu chủ đề, cần phải đi sâu nghiên cứu để tìm ra phương pháp hay, tối ưu nhất. Nhằm tạo sự ham thích, đam mê và hứng thú trong học tập, từ kết quả trên cho thấy, việc sử dụng phương pháp mới, mang lại hiệu quả cao hơn phương pháp dạy học truyền thống. Phương pháp mới này kích thích được tư duy sáng tạo của học sinh, học sinh rất hứng thú khi đến được học tiết chính tả, vì các em sẽ được tham quan giả ngoại, được quan sát các hiện tượng sự vật, tìm hiểu những kiến thức hay, từ ngữ và gọi đúng chính tả tên của các hiện tượng sự vật ở xung quanh mình. Từ đó lớp học trở nên sinh động, náo nhiệt, làm cho các erm không nhút nhát, mạnh dạng tham gia phát biểu ý kiến tích cực, tự tin, năng động. Bên cạnh đó học sinh rất thích sưu tầm tranh ảnh phục vụ cho việc học tập của mình. Các em luôn tư thế chuẩn bị bài học trước ở nhà, từ đó có kết quả 100% học sinh đạt hoàn thành bài học.
- Với nhiều phương pháp trên, tôi cảm thấy tác động ở học sinh học tập đạt kết quả, tôi còn thấy sự phấn khởi, đam mê của bản thân đối với công tác giảng dạy. Như vậy, qua kết quả thành công tôi có một số kinh nghiệm nữa là:
+ Chuẩn bị và thiết kế bài dạy cho hợp lý.
+ Chịu khó tìm hiểu, lắng nghe, tạo cơ hội cho học sinh tham gia học tập toàn bộ.
+ Tạo sự quan tâm, gần gũi, không tỏ ra bực bội, la mắng hay trách phạt khi các em làm sai.
+ Quan trọng hơn hết, khi dạy môn chính tả giáo viên cần nắm vững tính chất, nhiệm vụ của phân môn, tính chất nổi bật của của nó là tính thực hành. Chúng ta cần rèn luyện kỹ năng viết đúng chính tả cho học sinh thông qua các bài tập thực hành. Giáo viên cần phải nắm vững yêu cầu của từng kiểu bài, để từ đó có thể lựa chọn phương pháp giảng dạy phù hợp với trình độ của học sinh, phù hợp với nội dung mà giáo viên đã lựa chọn để rèn luyện kỹ năng viết đúng chính tả cho học sinh.
+ Nhất là người giáo viên luôn phải kiên nhẫn sửa lỗi chính tả và hướng dẫn cho học sinh sửa lỗi viết sai của mình trong mọi trường hợp. Bên cạnh đó, giáo viên cần phải lưu ý các từ ngữ và nắm vững nghĩa của từ, đó là những cơ sở giúp cho học sinh tiến bộ tốt trong học tập.
- Dù trong lĩnh vực nào, nhiệm vụ công tác nào, dù khó khăn cách mấy, nếu ta có tính kiên trì, sáng tạo và nhiệt tình trong công tác giảng dạy, yêu nghề, mến trẻ và cố gắng trao đổi, học hỏi, rút kinh nghiệm từ đồng nghiệp thì ta sẽ vượt qua.
III/. Kết luận:
Những biện pháp đã nêu, nhằm rèn luyện kỹ năng cho học sinh viết đúng chính tả để nâng cao năng lực nói và viết, vì nó chính là dấu hiệu trưởng thành về mặt ngôn ngữ của học sinh. Vì vậy, việc rèn luyện cho học sinh không viết sai lỗi chính tả là một quá trình hết sức khó khăn, lâu dài và đầy phức tạp, công việc này không chỉ giới hạn trong phạm vi nhà trường, không chỉ là nhiệm vụ riêng của thầy cô giáo mà cần phải có sự phối hợp giữa gia đình – nhà trường. Chúng ta cần phải giúp cho cha mẹ học sinh nhận thức được việc viết đúng chính tả là cực kỳ quan trọng, có như vậy gia đình mới phối hợp với giáo viên bằng cách tạo điều kiện, động viên con em mình: đọc bài, viết từ, đọc sách báo lành mạnhNhưng nhất là bản thân của học sinh phải có sự nổ lực và ý thức tự rèn luyện để viết đúng chính tả. Vì việc viết đúng chính tả gắn liền với việc học tập tốt các môn học của các em. Kỹ năng viết đúng chính tả của học sinh, còn tùy thuộc vào khối lượng tri thức mà học sinh tiếp thu được trong quá trình học tập cùng với những tri thức do các em thu được trong hành trình nhận thức qua các tiết học.
Qua thực hiện phương pháp mới, mà bản thân tôi dã suy nghỉ, tìm tòi, trao đổi, học hỏi đồng nghiệp qua nhiều năm công tác, đúc kết được những biện pháp, áp dụng giảng dạy đạt hiệu quả. Đây cũng là bài học quý trong suốt quá trình trực tiếp tham gia giảng dạy, đặc biệt là môn chính tả. Đây cũng là những kinh nghiệm nhỏ nhằm trao đổi với quý đồng nghiệp về một số phương pháp mới mà bản thân tôi đã rút kết được. Tất nhiên, mỗi người có một phương pháp, một nghệ thuật riêng, nhưng chúng ta điều có chung một ước mơ là “trồng người”, kinh nghiệm này tôi đã thực hiện trong những năm qua được hội đồng thi đua nhà trường công nhận là phương pháp áp dụng trong giảng dạy môn chính tả, đạt kết quả rất tốt. Bên cạnh kết quả đạt được cũng còn nhiều hạn chế, rất mông sự đóng góp ý kiến chân thành của đồng nghiệp, của Hội đồng thi đua các cấp, để bản thân tôi rút kết thêm những kinh nghiệm, đưa vào áp dụng trong thời gian sắp tới đạt kết quả tốt hơn và hoàn thiện hơn nữa, ngang tầm với “công nghiệp hoá – Hiện hoá đất nước”. 
 Xin trân trọng kính chào!
 Đông Thái, ngày 16/05/2011.
Duyệt của HĐTĐ nhà trường Người viết sáng kiến
 Nguyễn Quốc Việt
PHỤ LỤC
Số TT
Tiêu mục
NỘI DUNG
Trang
01
02
03
04
05
06
07
08
09
 Lời nói đầu
A. PHẦN MỞ ĐẦU
I/. Nhận thức vấn đề và lý do chọn đề tài:
B. PHẦN NỘI DUNG:
I/. Thực trạng vấn đề:
II/. Biện pháp khắc phục:
C. PHẦN KẾT LUẬN
I/. Một số giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện:
II/. Bài học kinh nghiệm:
III/. Kết luận:
1/. Nhận thức vấn đề:
2/. Lý do chọn đề tài:
1/. Thực trạng tình hình:
2/. Thuận lợi:
3/. Khó khăn
1/. Trước khi thực hiện đề tài:
2/. Thực hiện đề tài:
2.1. Đối với giáo viên và học sinh:
2.2. Đối với gia đình phụ huynh h/s:
2.3. Tổ chức tham quan giả ngoại:
2.4. Sưu tầm tài liệu, tranh ảnh:
3/. Kết quả đạt được:
01
02
03
04
05
06
08
08
10
10
15
16
16
16
17
17
18
19

Tài liệu đính kèm:

  • docsang_kien_kinh_nghiem_mot_so_bien_phap_ren_luyen_ky_nang_vie.doc