Nhằm nâng cao chất lượng giảng dạy trong nhà trường nói chung và của bậc Tiểu học nói riêng, hiện nay vấn đề cải cách giảng dạy không phải là mối quan tâm của một cá nhân nào, mà đó là nhiệm vụ chung của toàn xã hội.
Chính sự đổi mới phương pháp giáo dục bậc tiểu học sẽ góp phần tạo con người mới một cách có hệ thống và vững chắc.
Trong giai đoạn hiện nay, xu hướng chung của sự đổi mới phương pháp dạy học ở bậc tiểu học là làm sao để giáo viên không chỉ là truyền thụ kiến thức mà còn là người tổ chức, định hướng cho học sinh hoạt động, để học sinh huy động vốn hiểu biết và kinh nghiệm của bản thân vào việc chiếm lĩnh tri thức mới.
Mở đầu Từ năm học 2003 – 2004 các em học sinh lớp 2 trên toàn quốc bắt đầu học môn tiếng Việt theo sách giáo khoa Tiếng Việt 2 ( tập một, tập hai ) của Chương trình Tiểu học mới. Sách giáo khoa Tiếng Việt 2 gồm các bài học thuộc 6 phân môn.Trong các phân môn đó, Tập làm văn là phân môn có nhiều đổi mới về nội dung và phương pháp dạy học. Là một giáo viên dạy nhiều năm lớp 2, khi bắt tay vào dạy phân môn Tập làm văn cho học sinh, tôi thấy rất hứng thú và tôi quyết định đi sâu nghiên cứu phân môn này nhằm giúp các em học sinh lớp 2 học tốt hơn môn Tập làm văn. Bởi vì chúng ta dạy cho học sinh biết cách làm văn chính là dạy cho các em biết cách ứng xử các tình huống xảy ra trong cuộc sống. Vì lý do đó tôi đã nghiên cứu đề tài: “Hướng dẫn học sinh lớp 2 học Tập làm văn ” Chúng tôi thực sự mong muốn được sự quan tâm của các cấp lãnh đạo để việc học phân môn Tập làm văn của học sinh lớp 2, đặc biệt là của học sinh tiểu học được phát triển không ngừng. Xin trân trọng cảm ơn! Phần I: Đặt vấn đề I . Lý do chọn đề tài: Nhằm nâng cao chất lượng giảng dạy trong nhà trường nói chung và của bậc Tiểu học nói riêng, hiện nay vấn đề cải cách giảng dạy không phải là mối quan tâm của một cá nhân nào, mà đó là nhiệm vụ chung của toàn xã hội. Chính sự đổi mới phương pháp giáo dục bậc tiểu học sẽ góp phần tạo con người mới một cách có hệ thống và vững chắc. Trong giai đoạn hiện nay, xu hướng chung của sự đổi mới phương pháp dạy học ở bậc tiểu học là làm sao để giáo viên không chỉ là truyền thụ kiến thức mà còn là người tổ chức, định hướng cho học sinh hoạt động, để học sinh huy động vốn hiểu biết và kinh nghiệm của bản thân vào việc chiếm lĩnh tri thức mới. Như chúng ta đã biết Tiếng Việt vừa là môn học chính, vừa là môn công cụ giúp học sinh tiếp thu các môn học khác được tốt hơn. Cho nên tôi chọn cho mình đề tài: “Hướng dẫn học sinh lớp 2 học Tập làm văn ” vì tôi nhận thấy đối với người Việt Nam thì Tiếng Việt rất quan trọng trong cuộc sống, trong giao tiếp, trong học tập và sinh hoạt. Các em học sinh lớp 2 vốn sống còn ít, vốn hiểu biết về Tiếng Việt còn rất sơ sài, chưa định rõ trong giao tiếp, viết văn câu còn cụt lủn. Hoặc câu có thể có đủ ý nhưng chưa có hình ảnh. Các từ ngữ được dùng về nghĩa còn chưa rõ ràng. Việc trình bày, diễn đạt ý của các em có mức độ rất sơ lược, đặc biệt là khả năng miêu tả. Chính vì muốn để các em có khả năng hiểu Tiếng Việt hơn, biết dùng từ một cách phù hợp trong các tình huống (chia vui, chia buồn, an ủi, đề nghị, xin lỗi.) nên ngay từ đầu năm học tôi đã hướng và cùng các em mở rộng hiểu biết về Tiếng Việt qua các phân môn trong môn Tiếng Việt, đặc biệt là phân môn Tập làm văn. II. Phạm vi đề tài: 1. Mục đích nghiên cứu: Qua đề tài này tôi mong muốn được góp một phần nhỏ vào việc rèn cho học sinh ba kỹ năng chính: - Sử dụng đúng nghi thức lời nói. - Tạo lập văn bản phục vụ đời sống hàng ngày. - Nói viết những vấn đề theo chủ điểm. Dạy Tiếng Việt ở tiểu học nói chung và dạy Tập làm văn nói riêng không phải là dạy lý thuyết ngôn ngữ, mà đó là việc dạy hoạt động ngôn ngữ. Bởi thế các yếu tố cuả tình huống giao tiếp rất được quan tâm. Nếu như trong dạy câu, tình huống giao tiếp mới chỉ được chú ý một phần thì trong dạy Tập làm văn, tình huống giao tiếp được chú ý một cách toàn diện và đầy đủ hơn, các tình huống hiện ra cũng cụ thể và rõ ràng hơn. Nếu như trong dạy câu, ta có thể lướt nhanh qua những tình huống giao tiếp, thì ngược lại, trong làm văn không thể không đề cập tình huống. Bài văn viết ra bao giờ cũng hướng tới đối tượng người đọc, người nghe cụ thể với những nội dung và mục đích cụ thể. Không thể có một bài văn viết chung chung, không rõ đối tượng, không rõ nội dung và mục đích giao tiếp. Nếu như trong việc dạy câu, việc đánh giá câu đúng, câu sai đã vừa cần phải chú ý đến quy tắc ngôn ngữ, vừa cần phải chú ý đến quy tắc giao tiếp, thì ở bậc bài văn, bậc văn bản lại càng cần phải như thế. Lúc này, việc đánh giá toàn bộ chất lượng bài văn viết ra là ở chỗ có sự phù hợp với giao tiếp hay không, chứ không phải ở một vài điểm đúng sai mang tính chất bộ phận trong từ, trong câu. Những bài văn có sự phù hợp cao với đối tượng, nội dung và mục đích giao tiếp là những bài văn tốt. Bởi thế, việc dạy Tập làm văn cho học sinh cần phải chú ý tới việc dạy các em nói, viết đúng quy tắc giao tiếp, đúng nghi thức lời nói, nghĩa là phải chú ý đầy đủ tới những yếu tố ngoài ngôn ngữ nhưng lại để lại dấu ấn đậm nét trong ngôn ngữ. 2 - Đối tượng nghiên cứu: Học sinh lớp 2, đặc biệt là học sinh lớp 2A trường Tiểu học Khương Thượng - Đống Đa – Hà Nội. Iii. Mục tiêu, đặc trưng bộ môn: 1. Vị trí của dạy học Tập làm văn ở tiểu học, nhất là lớp 2, Tập làm văn là một trong những phân môn có tầm quan trọng đặc biệt (ở lớp 1 các em chưa được học, lên lớp 2 học sinh mới bắt đầu được học, được làm quen. ) Môn Tập làm văn giúp học sinh có kỹ năng sử dụng Tiếng Việt được phát triển từ thấp đến cao, từ luyện đọc cho đến luyện nói, luyện viết thành bài văn theo suy nghĩ của từng cá nhân. Tập cho các em ngay từ nhỏ những hiểu biết sơ đẳng đó cũng chính là rèn cho các em tính tự lập, tự trọng. Con người văn hoá sẽ hình thành ở các em từ những việc nhỏ nhặt, tưởng như không quan trọng đó. 2. Nhiệm vụ của phân môn Tập làm văn: Làm văn có nghĩa là tạo lập văn bản. Nhiệm vụ chính của phân môn Tập làm văn là rèn luyện cho học sinh kỹ năng tạo lập văn bản.ở đây thuật ngữ “văn bản ” được dùng để chỉ sản phẩm hoàn chỉnh của lời nói trong một hoàn cảnh giao tiếp cụ thể. Đó không nhất thiết là một bài văn gồm nhiều câu; nhiều đoạn; cũng không nhất thiết phải ở dạng viết; càng không phải chỉ là loại văn kể chuyện hay miêu tả theo phong cách nghệ thuật. Trong hoàn cảnh giao tiếp cụ thể, sản phẩm lời nói hoàn chỉnh mà một người tạo lập được có thể chỉ là một câu chào, một lời cảm ơn hay một vài dòng thăm hỏi, chúc mừng trên tấm thiếp... Đối với lớp 2, dạy Tập làm văn trước hết là rèn luyện cho học sinh các kĩ năng phục vụ học tập và giao tiếp hằng ngày, cụ thể là: * Dạy các nghi thức lời nói tối thiểu, như: chào hỏi, tự giới thiệu, cảm ơn, xin lỗi, nhờ cậy, yêu cầu, khẳng định, phủ định, tán thành, từ chối, chia vui, chia buồn... * Dạy một số kỹ năng phục vụ học tập và đời sống, như: khai bản tự thuật ngắn, viết những bức thư ngắn, nhận và gọi điện thoại, đọc và lập danh sách học sinh, tra mục lục sách, đọc thời khoá biểu, đọc và lập thời gian biểu... * Bước đầu dạy cách tổ chức đoạn văn, bài văn thông qua nhiệm vụ kể một sự việc đơn giản hoặc tả sơ lược về người, vật xung quanh theo gợi ý bằng tranh, bằng câu hỏi. Bên cạnh đó, do quan niệm tiếp thu văn bản cũng là một loại kỹ năng về văn bản cần được rèn luyện, trong các tiết Tập làm văn từ giữa học kỳ II trở đi, sách giáo khoa tổ chức rèn luyện kỹ năng nghe cho học sinh thông qua hình thức nghe kể chuyện - trả lời câu hỏi theo nội dung câu chuyện. Cuối cùng, cũng như các phân môn và môn học khác, phân môn Tập làm văn, thông qua nội dung dạy học của mình, có nhiệm vụ trau dồi cho học sinh thái độ ứng xử có văn hoá, tinh thần trách nhiệm trong công việc, bồi dưỡng những tình cảm lành mạnh, tốt đẹp cho các em. 3. Nội dung phân môn Tập làm văn ở lớp 2: Nội dung các bài học về Tập làm văn ở lớp 2 giúp các em học sinh thực hành rèn luyện các kỹ năng nói, viết, nghe, phục vụ cho việc học tập và giao tiếp hằng ngày, cụ thể: * Thực hành về các nghi thức lời nói tối thiểu, như: chào hỏi; tự giới thiệu; cảm ơn; xin lỗi; khẳng định; phủ định; mời, nhờ , yêu cầu, đề nghị; chia buồn, an ủi; chia vui, khen ngợi; ngạc nhiên, thích thú; đáp lại lời chào, lời tự giới thiệu; đáp lời cảm ơn; đáp lời xin lỗi; đáp lời khẳng định; đáp lời phủ định; đáp lời đồng ý; ; đáp lời chia vui; đáp lời khen ngợi; ; đáp lời từ chối; đáp lời an ủi. * Thực hành về một số kỹ năng phục vụ học tập và đời sống hằng ngày, như: viết bản tự thuật ngắn, lập danh sách học sinh, tra mục lục sách, đọc thời khoá biểu, nhận và gọi điện thoại, viết nhắn tin, lập thời gian biểu, chép nội quy, đọc sổ liên lạc. * Thực hành rèn luyện về kỹ năng diễn đạt (nói, viết ), như: kể về người thân trong gia đình, về sự vật hay sự việc được chứng kiến; tả sơ lược về người, vật xung quanh theo gợi ý bằng tranh hoặc câu hỏi... * Thực hành rèn luyện về kỹ năng nghe: dựa vào câu hỏi gợi ý để kể lại hoặc nêu được ý chính của mẩu chuyện ngắn đã nghe. Như vậy, phần Tập làm văn trong SGK Tiếng Việt 2 không phải chỉ giúp học sinh nắm các nghi thức tối thiểu cuả lời nói và biết sử dụng các nghi thức đó trong những tình huống khác nhau, như nơi công cộng, trong trường học, ở gia đình với những đối tượng khác nhau, như bạn bè, thầy cô, bố mẹ, người xa lạ...mà còn là việc nắm các kỹ năng giao tiếp thông thường khác; tạo lập văn bản phục vụ đời sống hằng ngày; nói, viết những vấn đề theo chủ điểm quen thuộc. Trong từng bài học, để rèn những kỹ năng trên, các nhân tố ngoài ngôn ngữ bao giờ cũng được chú ý. Ví dụ: để luyện việc sử dụng đúng nghi thức lời nói, sách đã ra một bài tập như sau: Có một người lạ đến nhà em gõ cửa và tự giới thiệu: “Chú là bạn bố cháu. Chú đến thăm bố mẹ cháu.” Nội dung cũng như mục đích giao tiếp hiện lên qua cách hỏi của bài tập bố mẹ có nhà hoặc bố mẹ không có nhà. Với những yếu tố ngoài ngôn ngữ như vậy đòi hỏi học sinh phải biết cân nhắc, lựa chọn trước khi nói những từ ngữ, những kiểu câu sao cho phù hợp. Việc lựa chọn lời nói trong từng tình huống giao tiếp như vậy không thể tuỳ tiện, hay chỉ bảo đảm đúng quy tắc ngữ pháp của ngôn ngữ. Với cách biên soạn này, giờ dạy Tập làm văn trở nên linh hoạt hơn, gắn với cuộc sống đời thường hơn và cũng vì thế giúp học sinh hứng thú trong giờ học, dễ dàng vượt qua những lực cản tâm lý vốn thường xuất hiện trong những giờ học tiếng nói chung, giờ học Tập làm văn nói riêng. Do mục đích, nhiệm vụ và yêu cầu cụ thể của mỗi bài tập làm văn mà việc dạy Tập làm văn có tầm quan trọng và ý nghĩa to lớn. Nó trở thành một trong những mục tiêu quan trọng khi dạy học ở trường tiểu học. Phần II: Đánh giá thực trạng năm học Để có biện pháp, phương pháp dạy học tốt, chúng ta hãy nhìn lại và đánh giá thực trạng năm học. 1. Thuận lợi: Hiện nay được sự quan ... đặc biệt là Tập đọc , Luyện từ và câu (LTVC ) nhằm mục đích giúp HS nắm và vận dụng tốt hơn các kiến thức đã học ở các phân môn Tiếng Việt khác ứng dụng vào phân môn Tập làm văn. Ví dụ1: Tuần 12: Bài Tập đọc: Điện thoại rất có tác dụng trong việc giúp HS học giờ Tập làm văn: Gọi điện. Ví dụ 2: Tuần 16: LTVC: Bài:Từ chỉ tính chất. Câu kiểu Ai thế nào? Mở rộng vốn từ: từ ngữ về vật nuôi. Qua giờ LTVC, HS quan sát tranh vẽ các con vật nuôi, nắm được một vốn từ phong phú hơn về vật nuôi. Đó chính là những kiến thức cần thiết giúp các em học tốt giờ Tập làm văn: Khen ngợi. Kể ngắn về con vật. Lập thời gian biểu. 3. Không chỉ kết hợp chặt chẽ với các phân môn khác trong Tiếng Việt mà khi dạy Tập làm văn người GV cần kết hợp chặt chẽ với các môn học khác như: Đạo đức, Tự nhiên xã hội ( TNXH ) Qua môn TNXH, HS được làm quen với những cây cối, những con vật trong đời sống hằng ngày (sống ở đâu, có đặc điểm gì. ). Đó cũng là những tư liệu quý báu giúp các em vận dụng để làm tốt hơn các bài văn kể về con vật, cây cối. Trong chương trình Đạo đức lớp hai có nhiều bài liên quan đến những nội dung các em học trong phân môn Tập làm văn như: Bài: Biết nhận lỗi và sửa lỗi; Biết nói lời yêu cầu, đề nghị; Lịch sự khi nhận và gọi điện thoại; Lịch sự khi đến nhà người khác. ở mỗi bài này HS đều được luyện tập những hành vi ứng xử phù hợp với các chuẩn mực đạo đức xã hội trong những tình huống đơn giản, cụ thể của cuộc sống hằng ngày. Vì thế nếu các em nắm vững được những kiến thức này thì khi học Tập làm văn các em sẽ thấy rất nhẹ nhàng, quen thuộc và gần gũi. 4. Khi dạy các bài Tập làm văn về bốn mùa, kể về người, con vật (thú, chim ), cây cối GV có thể cho HS xem thêm tranh (ảnh ) hoặc băng hình về các chủ đè này nhằm giúp HS nắm được rõ hơn về các hình ảnh của các sự vật. Từ đó làm cho bài văn của các em thêm sống động, có hình ảnh. 5. Cung cấp thêm cho HS những đoạn văn hay về các chủ đề (bốn mùa, người, con vật, cây cối ) để HS học tập về bố cục đoạn văn, cách kể (cách tả ) sao cho sinh động, phù hợp với đối tượng cần kể (tả ). Ví dụ: Ngay giữa sân trường, sừng sững một cây bàng. Mùa đông, cây vươn dài những cành khẳng khiu, trụi lá. Xuân sang, cành trên cành dưới chi chít những lộc non mơn mởn. Hè về, những tán lá xanh um che mát một khoảng sân trường.Thu đến, từng chùm quả chín vàng trong kẽ lá. 6. Thông qua các câu đố cho HS học tập được cách kể (cách tả ) về bốn mùa, người, con vật, cây cối. Ví dụ: Câu đố: Đầu xanh mũ vua Mình vàng áo giáp Một trăm con mắt Nhìn quanh bốn bề. Câu đố trên nói về quả dứa. Cho HS nêu nhận xét: quả dứa có màu vàng, cuống xanh có vài cái lá non chĩa ra như cái mũ của vua (vương miện ) nhờ câu: Đầu xanh mũ vua; mình vàng áo giáp .Quanh vỏ có nhiều mắt (Một trăm con mắt nhìn quanh bốn bề ). 7. Những chú ý khác: - Tạo cho HS những điều kiện để tự học cá nhân và tự học theo nhóm. HS được chuẩn bị kĩ, định hướng tốt trước khi học bài trên lớp. HS được học bằng tự hoạt động (bao gồm hoạt động theo chỉ dẫn và hoạt động tự do tạo lời văn ), học bằng sự hợp tác hoạt động. Cho HS được làm quen dần với các thao tác của kĩ năng quan sát, biết trình tự của các thao tác này.Biết cách phối hợp nhìn với tưởng tượng, liên tưởng. - Cho HS được làm quen với thao tác lựa chọn từ ngữ để diễn đạt có hình ảnh một vật, một việc, làm quen với thao tác so sánh khi nói và viết để cho câu văn có hình ảnh sống động. - Hướng dẫn HS bước đầu được làm quen với các kĩ năng làm văn viết: liên kết câu bằng từ nối, sữa chữa câu văn khi viết xong. - GV cần chuẩn bị kĩ nội dung hướng dẫn cho HS chuẩn bị bài ở nhà và phải biết cách điều hành HS nhiều nhóm cùng làm việc. Khi đánh giá bài viết GV cũng cần biết tôn trọng những ý riêng, những cách dùng từ thể hiện sự cảm nhận riêng của HS, tránh đánh giá theo một hệ thống câu trả lời áp đặt do chính GV đưa ra. Phần V: Kết quả Sau một thời gian học tập và rèn luyện, chất lượng học tập của HS lớp tôi dạy đã được nâng cao rõ rệt. HS đã bước đầu biết cách ứng xử, nói và viết phù hợp với tình huống giao tiếp. Tôi tự nhận thấy mình đã tìm được hướng đi đúng, cách làm phù hợp cho việc nâng cao chất lượng giảng dạy môn Tập làm văn. Tôi thấy mỗi giờ dạy bản thân mình cũng tạo được sự say mê, hứng thú trong việc rèn cho các em học Tập làm văn. Cho nên tiết Tập làm văn bây giờ trở nên nhẹ nhàng hơn, hiệu quả hơn so với trước. Tôi đã mạnh dạn thực hiện kinh nghiệm của mình trong các giờ Tập làm văn.Đầu năm học, khi mới bước vào học phân môn Tập làm văn có không ít HS lớp tôi rất “sợ ” học phân môn này. Nhưng dần dần với sự động viên, dìu dắt của tôi, số lượng các em sợ học phân môn này ngày càng giảm dần. Thay vào đó HS rất mong muốn, phấn khởi chờ đón giờ Tập làm văn. HS lớp tôi đã có ý thức hơn trong các giờ học Tập làm văn, HS tự tin và hứng thú học tập. Chất lượng học Tập làm văn có chuyển biến rõ rệt. Nội dung các bài viết phong phú, các bài viết có sự khác biệt rõ do HS được bộc lộ kinh nghiệm, sự cảm nhận của cá nhân khi quan sát, HS được tự do diễn đạt bằng sự lựa chọn từ ngữ, mô hình câu của riêng mình. Giờ học hứng thú hơn bởi HS có động cơ nói ra, viết ra điều mình thấy, mình cảm nhận được. Đó chính là những động lực thúc đẩy tôi ngày càng nỗ lực phấn đấu hơn nữa trong sự nghiệp trồng người đầy khó khăn thử thách này. Phần VI: Kết luận Đứng trước vai trò, vị trí, tầm quan trọng của việc dạy Tập làm văn cho HS Tiểu học nói chung và đối với HS lớp hai nói riêng, tôi thấy việc hướng dẫn cho các em nắm được phương pháp học phân môn Tập làm văn là hết sức cần thiết. Học văn không chỉ là học những tri thức về ngôn ngữ, về lý luận mà quan trọng hơn là bồi dưỡng và phát triển năng lực văn ở mỗi người. Năng lực văn này bao gồm năng lực tư duy và năng lực cảm xúc; năng lực thể hiện, tức khả năng nói, viết, diễn đạt cảm nghĩ của mình trong một văn bản hay trong một lời nhắn. Học văn vừa là học, vừa là sống. Trong cái sống đó, tri thức, điều học được là cần, nhưng chưa phải là cái quan trọng nhất. Dạy Tập làm văn mà chỉ thiên về cung cấp những kiến thức thì phân môn Tập làm văn sẽ trở nên nghèo nàn và buồn tẻ biết bao nhiêu. Một trong những mục đích quan trọng của việc dạy Tiếng Việt cho HS trong nhà trường là giúp cho các em hiểu và sử dụng được Tiếng Việt , một phương tiện giao tiếp quan trọng nhất của chúng ta. Hơn nữa, việc dạy học Tiếng Việt không phải chỉ đơn thuần nhằm cung cấp cho HS một số những khái niệm hay quy tắc ngôn ngữ, mà mục đích cuối cùng cần phải đạt đến lại là việc giúp các em có được những kĩ năng, kĩ xảo trong việc sử dụng ngôn ngữ. HS không thể chỉ biết những lý thuyết về hệ thống ngữ pháp Tiếng Việt, biết một khối lượng lớn các từ ngữ Tiếng Việt, mà lại không có khả năng sử dụng những hiểu biết ấy vào giao tiếp. Dạy Tiếng Việt cho các em, đặc biệt ở các lớp đầu bậc Tiểu học, không phải chủ yếu là dạy “kĩ thuật ” ngôn ngữ mà là dạy “kĩ thuật ” giao tiếp. Việc dạy tiếng gắn liền với hoạt động giao tiếp là con đường ngắn nhất, có hiệu quả nhất giúp HS nắm được các quy tắc sử dụng ấy.Vì thế, có thể nói dạy tiếng chính là việc dạy cho các em cách tổ chức giao tiếp bằng ngôn ngữ. Như chúng ta thấy quy trình “Tập làm văn ” ở lớp hai chỉ có tập tả và tập kể chút ít, ngoài ra chỉ là những bài tập nói và viết những lời đối thoại trong một số tình huống giao tiếp, những bài viết văn bản thường dùng, đơn giản và gần gũi với các em. Mỗi bài “Tập làm văn ” là một dịp cho các em có thêm kiến thức và kĩ năng chủ động tham dự vào cuộc sống văn hoá thường ngày. Vì vậy, GV cần hết sức linh hoạt để làm cho tiết “Tập làm văn ” trở thành một tiết học hứng thú và bổ ích. Điều quan trọng là cần căn cứ vào nội dung, tính chất của từng bài, căn cứ vào trình độ HS và năng lực, sở trường của GV; căn cứ vào điều kiện, hoàn cảnh cụ thể của từng trường, từng lớp mà lựa chọn, sử dụng kết hợp các phương pháp và hình thức dạy học một cách hợp lý, đúng mức. Trên đây là sáng kiến nhỏ mà tôi đã áp dụng để dạy phân môn Tập làm văn ở lớp hai. Tôi sẽ tiếp tục áp dụng kinh nghiệm này để nâng cao khả năng học tốt phân môn Tập làm văn của HS. Song tôi rất mong muốn các bạn đồng nghiệp tìm tòi, sáng tạo ra những sáng kiến kinh nghiệm quý báu để góp phần nâng cao chất lượng giờ dạy. Tôi chỉ có một kiến nghị nhỏ: đề nghị Bộ Giáo dục, Sở Giáo dục trang bị thêm cho chúng tôi tranh ảnh, mẫu vật, băng hình có nội dung theo các bài học để giờ dạy đạt kết quả cao hơn. Rất mong Ban giám hiệu và các đồng nghiệp góp ý để tôi hoàn thành tốt nhiệm vụ của mình. Xin trân trọng cảm ơn! Hà Nội, ngày 12 tháng 4 năm 2006 Người viết Nguyễn Thị Thanh Thương Tài liệu tham khảo 1. Yêu cầu cơ bản về kiến thức và kĩ năng các lớp 1, 2, 3, 4. Bộ Giáo dục - Đào tạo 2. Giải đáp 88 câu hỏi về Giảng dạy Tiếng Việt ở Tiểu học. Lê Hữu Tỉnh – Trần Mạnh Hưởng – NXBGD 3. Hỏi - Đáp về dạy học Tiếng Việt 2 Nguyễn Minh Thuyết – NXBGD 4. Một số lưu ý khi dạy Tiếng Việt ở Tiểu học Sở Giáo dục Hà Nội 5. Thế giới trong ta (số 189 ) Hội Tâm lý – Giáo dục học Việt Nam 6. Thực hành Tập làm văn 2 Trần Mạnh Hưởng – Phan Phương Dung – NXBGD 7. Tập làm văn 2 Đặng Mạnh Thường – NXBGD 8. Trò chơi học tập Tiếng Việt 2 Trần Mạnh Hưởng – Nguyễn Thị Hạnh – Lê Phương Nga NXBGD Mục lục Trang Mở đầu:. 1 Phần I: Đặt vấn đề:. 2 I. Lý do chọn đề tài:.. 2 II. Phạm vi đề tài:... 3 Mục đích nghiên cứu:.... 3 Đối tượng nghiên cứu:.. 4 III. Mục tiêu, đặc trưng bộ môn:... 5 Vị trí của dạy học Tập làm văn: 5 Nhiệm vụ của phân môn Tập làm văn ở lớp 2:... 5 Nội dung của phân môn Tập làm văn ở lớp 2:... 6 Phần II: Đánh giá thực trạng năm học.. 8 Thuận lợi:.. 8 Khó khăn:.. 8 Phần III: Quá trình triển khai thực hiện đề tài:... 10 Phương pháp dạy – học phân môn Tập làm văn:. 10 B. Thực hành về các nghi thức lời nói tối thiểu:.. 12 C. Thực hành về một số kĩ năng phục vụ học tập và đời sống:... 30 D. Thực hành rèn luyện về kĩ năng diễn đạt nói (viết ):.. 40 E. Thực hành kĩ năng nghe – trả lời câu hỏi:.... 60 Phần IV: Những lưu ý khi dạy Tập làm văn cho học sinh:........ 62 Phần V:Kết quả:.... 65 Phần VI: Kết luận:.. 66 Tài liệu minh hoạ:. 68 Tài liệu tham khảo:... 69
Tài liệu đính kèm: