Sáng kiến kinh nghiệm: Rèn kỹ năng giải toán có lời văn cho học sinh lớp 2

Sáng kiến kinh nghiệm: Rèn kỹ năng giải toán có lời văn cho học sinh lớp 2

Giải toán có lời văn là một trong năm mảng kiến thức toán ở bậc tiểu học. Đây là mảng kiến thức có tính chất tổng hợp nhất. Nó có sự kết hợp của các yếu tố số học, đo đại lượng, hình học, đại số, nó xuất hiện ở các khâu của quá trình dạy học toán ở tiểu học: Từ khâu hình thành khái niệm đến qui tắc tính toán và thực hành.

 Mục tiêu, yêu cầu giải toán có lời văn ở lớp 2 là: Biết tự tóm tắt bài toán bằng cách viết ngắn gọn, bằng sơ đồ để nhận biết mối quan hệ chủ yếu giữa các đại lượng phải tìm. Biết trình bày lời giải bài toán gồm các câu trả lời có kèm theo phép tính. Mặt khác nó còn liên quan mật thiết với ngôn ngữ Tiếng Việt, cũng chính vì vậy giải toán lời văn là khó không những đối với học sinh người Kinh mà lại càng khó đối với các em người dân tộc và học sinh lớp 2. Đúng vậy trong quá trình dạy toán lớp 2 của trường tiểu học Hữu Nghị tôi thấy các em học sinh lớp 2 và chủ yếu là học sinh dân tộc rất khó khăn trong việc giải toán có lời văn vì vốn từ ngữ Tiếng Việt của các em còn nghèo nàn, vốn từ giao tiếp đã bị hạn chế, các thuật ngữ toán học lại càng hạn chế hơn. Do vậy các em càng khó hiểu khi đọc đề, phân tích dữ kiện sai dẫn đến kết quả sai. Cũng có khi thực hiện phép tính đúng, nhưng câu trả lời sai, kém chặt chẽ, thiếu logic.

 Xuất phát từ tầm quan trọng của việc giải toán có lời văn, xuất phát từ thực tế dạy và học toán ở trường tiểu học Hữu Nghị, tôi đã tìm hiểu cách dạy học sinh giải toán nhằm:

“Rèn kỹ năng giải toán có lời văn cho học sinh lớp 2”

 

doc 9 trang Người đăng baoha.qn Lượt xem 1898Lượt tải 1 Download
Bạn đang xem tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm: Rèn kỹ năng giải toán có lời văn cho học sinh lớp 2", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Phần thứ nhất:
Đặt vấn đề
Giải toán có lời văn là một trong năm mảng kiến thức toán ở bậc tiểu học. Đây là mảng kiến thức có tính chất tổng hợp nhất. Nó có sự kết hợp của các yếu tố số học, đo đại lượng, hình học, đại số, nó xuất hiện ở các khâu của quá trình dạy học toán ở tiểu học: Từ khâu hình thành khái niệm đến qui tắc tính toán và thực hành.
	Mục tiêu, yêu cầu giải toán có lời văn ở lớp 2 là: Biết tự tóm tắt bài toán bằng cách viết ngắn gọn, bằng sơ đồ để nhận biết mối quan hệ chủ yếu giữa các đại lượng phải tìm. Biết trình bày lời giải bài toán gồm các câu trả lời có kèm theo phép tính. Mặt khác nó còn liên quan mật thiết với ngôn ngữ Tiếng Việt, cũng chính vì vậy giải toán lời văn là khó không những đối với học sinh người Kinh mà lại càng khó đối với các em người dân tộc và học sinh lớp 2. Đúng vậy trong quá trình dạy toán lớp 2 của trường tiểu học Hữu Nghị tôi thấy các em học sinh lớp 2 và chủ yếu là học sinh dân tộc rất khó khăn trong việc giải toán có lời văn vì vốn từ ngữ Tiếng Việt của các em còn nghèo nàn, vốn từ giao tiếp đã bị hạn chế, các thuật ngữ toán học lại càng hạn chế hơn. Do vậy các em càng khó hiểu khi đọc đề, phân tích dữ kiện sai dẫn đến kết quả sai. Cũng có khi thực hiện phép tính đúng, nhưng câu trả lời sai, kém chặt chẽ, thiếu logic.
	Xuất phát từ tầm quan trọng của việc giải toán có lời văn, xuất phát từ thực tế dạy và học toán ở trường tiểu học Hữu Nghị, tôi đã tìm hiểu cách dạy học sinh giải toán nhằm:
“Rèn kỹ năng giải toán có lời văn cho học sinh lớp 2”
Phần thứ 2:
Nội dung
1. Cơ sở lý luận của việc giải toán có lời văn:
	Giải toán có lời văn là một trong năm mảng kiến thức quan trọng của chương trình toán tiểu học, nó có ngôn ngữ hỗ trợ do vậy nó gắn kết được giữa các kiến thức toán với thực tiễn đời sống “Giải toán có lời văn” còn tạo điều kiện cho học sinh có năng lực giải quyết các bài toán, tình huống toán học xảy ra trong thực tế cuộc sống. Ngoài ra nhờ việc dạy học giải toán mà học sinh có điều kiện rèn luyện và phát triển năng lực tư duy, rèn luyện phương pháp suy luận và phẩm chất cần thiết của con người lao động mới.
	Yêu cầu đối với học sinh khi giải toán có lời văn là: Biết phân tích mối quan hệ, xác định dữ liệu bài toán (Cái đã cho, cái phải tìm) Biết vận dụng linh hoạt, sáng tạo các phương pháp giải toán, có kỹ năng đặt và giải phép tính đúng từ chỉ đơn vị. Ngoài ra học sinh còn phải thực hiện đủ các phần của bài toán có lời văn, trong đó phải biết dùng lời văn ngắn gọn, đủ ý logic để diễn đạt câu trả lời.
	ở Lớp 2 các bài toán có lời văn đều là bài toán đơn tức là bài toán khi giải chỉ cần một phép tính, xong các em ở lớp 2 còn nhỏ ngoài một số đặc điểm của trẻ em nói chung, trẻ em dân tộc thiểu số còn một số đặc điểm riêng: Tính trực quan trong nhận thức cao, khả năng tưởng tượng, suy luận còn hạn chế, năng lực liên kết các dữ kiện còn kém các thuật ngữ toán “hơn”, “kém”, “tăng”... các em hiểu chúng còn chậm và chưa sâu sắc. Mặt khác khả năng diễn đạt câu trả lời cho phép toán còn kém. Vậy làm thế nào để giúp các em thực hiện tốt khi giải các bài toán có lời văn. Tôi đã thực hiện một số giải pháp sau:
II. Một số giải pháp về rèn kỹ năng giải toán có lời văn cho học sinh lớp 2.
1. Giải pháp 1: Phân loại các bài toán có lời văn:
	Vấn đề phân loại các bài toán có lời văn là vấn đề quen thuộc giúp học sinh nhìn rõ thêm mối quan hệ giữa các bộ phận và giúp học sinh nắm vững cách giải và hình thành các cách giải (Có bài còn nhiều cách giải) Đối với lớp 2, tôi đã tìm hiểu và phân loại như sau:
	+ Phân loại theo một số phép tính: ở lớp 2 các bài toán có lời văn đều là bài toán khi giải chỉ cần một phép tính.
Ví dụ:
Mỗi nhóm có 3 học sinh, có 10 nhóm như vậy. Hỏi có tất cả bao nhiêu học sinh?
	Giải;
	10 nhóm như vậy có tất cả số học sinh là:
	3 x 10 = 30 (học sinh)
	Đáp số: 30 học sinh
	+ Phân loại theo phương pháp giải:
Giải bằng một phép cộng
Giải bằng một phép trừ
Giải bằng một phép nhân
Giải bằng một phép chia
+ Phân loại theo đại lượng
Các bài toán về khối lượng của vật. Độ dài của vật.
Các bài toán về đại lượng
Phân loại các bài toán có lời văn như trên có tác dụng định hướng giải phù hợp hơn và dễ đi sâu vào bản chất, từ đó dễ phát hiện ra những sai sót của học sinh để sửa chữa cho các em. Phân tích để tìm ra cách giải riêng của từng loại.
* Giống nhau:
Đều giải bằng 1 phép tính, do đó đều có 1 câu lời giải.
* Khác nhau:
	+ Bài toán về số lượng thì câu lời giải bắt đầu bằng từ “số lượng”.
	+ Bài toán về khối lượng thì trong câu lời giải phải có từ “nặng là”.
	+ Bài toán về độ dài thì câu lời giải bắt đầu bằng từ “độ dài”.
2. Giải pháp 2: 
Hướng dẫn học sinh phân tích đề toán, tóm tắt đề và trình bày lời giải.
Bước 1: Nghiên cứu kỹ đầu bài xem đầu bài cho biết gì và yêu cầu tìm gì?
Bước 2: Thiết lập mối quan hệ giữa các số đã cho và tóm tắt nội dung bài toán (Tóm tắt bằng lời hoặc bằng sơ đồ đoạn thẳng).
Ví dụ: Bài toán về số lượng:
	Mẹ và chị hái được 85 quả cam, mẹ hái được 44 quả cam. Hỏi chị hái được bao nhiêu quả cam? (bài 4 trang 11 – Toán 2)
Tôi đã hướng dẫn học sinh tóm tắt đề bằng 2 cách:
+ Cách 1: Tóm tắt bằng lời:
	Mẹ và chị hái: 85 quả
	Mẹ hái: 44 quả
	Chị hái ... quả?
Tóm tắt bằng cách này cần cho học sinh biết rõ: 2 dòng đầu đó là:
	Mẹ và chị hái: 85 quả
	Mẹ hái 44 quả là trả lời cho câu hỏi: Bài toán cho biết gì?
Còn dòng cuối:
	Chị hái ... quả? Trả lời cho câu hỏi: Bài toán yêu cầu hỏi gì?
Cuối câu tóm tắt này (là cái cần tìm) nên phải đặt dấu chấm hỏi vào cuối câu.
+ Cách 2: Tóm tắt bằng sơ đồ đoạn thẳng:
	85 quả
 |------------------------|-----------------------|
 mẹ: 44 quả chị: ? quả
	Ưu điểm của tóm tắt bằng sơ đồ đoạn thẳng là ngắn gọn nhưng nếu không chú ý sẽ thiếu chính xác. Chẳng hạn ở bài toán trên thì mẹ hái 44 quả. Như vậy chị hái 85 – 44 = 41 quả thì đoạn thẳng biểu diễn số quả của chị gần bằng nhau. Nếu không lưu ý học sinh có thể vẽ:
85 quả
 |-------------------|------------------------------|
 mẹ: 44 quả chị: ? quả
Hoặc:
85 quả
 |----------------------------|------------------|
 mẹ: 44 quả chị: ? quả
Cả hai cách vẽ trên đều thiếu chính xác.
Bước 3: Tìm cách giải và trình bày bài giải:
	Sau khi tóm tắt đề bài tôi hướng dẫn học sinh tìm cách giải và trình bày bài giải như sau:
	+ Đặt câu hỏi để tìm cách giải: Muốn biết chị hái được bao nhiêu quả em phải làm gì?
	Hướng dẫn học sinh nêu lời giải: Yêu cầu lời giải phải đúng theo yêu cầu đề bài và phải thành câu đủ ý. Đối với loại toán về số lượng thì câu lời giải phải có từ “số lượng” sau khi hướng dẫn học sinh tìm được câu lời giải và phép tính tôi hướng dẫn học sinh trình bày:
	Số lượng quả cam chị hái là:
	85 – 44 = 41 (quả cam)
	Đáp số: 41 quả cam.
	Câu trả lời ở dòng trên, phép tính ở dòng dưới cân đối với dòng trên. Đáp số lệch sang bên phải.
Ví dụ: Bài toán về đại lượng.
	Mỗi con gà có 2 chân – Hỏi 6 con gà có bao nhiêu chân?
	(Bài số 2 trang 95 – Toán 2)
	Tôi đã hướng dẫn học sinh tóm tắt đề bằng 2 cách:
Cách 1: Tóm tắt bằng lời:
	1 con gà: 2 chân
	6 con gà: ... chân?
Cách 2: Sơ đồ
	1 con gà: |------|
	? chân
	6 con gà: |------|------|------|------|------|------|
	* Hướng dẫn học sinh nhận rõ 2 đại lượng là con gà và số lượng chân. – Yêu cầu: Điểm đầu của 2 đoạn phải bằng nhau, các đoạn thẳng nhỏ phải bằng nhau.
Lời giải:
	6 con gà có số lượng chân là:
	2 x 6 = 12 (chân)
	Đáp số: 12 chân.
	* Lưu ý học sinh khi đặt phép tính phải là 2 x 6 nhiều học sinh hay đặt ngược phép tính là 6 x 2 nếu đặt như thế này về kết quả thì đúng nhưng vì mặt ý nghĩa thì sai vì : 2 x 6 có nghĩa là 2 chân gấp 6 lần, còn nều viết: 6 x 2 đúng nghĩa đó thì 6 chân gấp 2 lần (6x2) không phù hợp với đầu bài.
Ví dụ: Các bài toán về khối lượng.
	Hoa cân nặng 28kg, Mai cân nặng hơn Hoa 3 kg. Hỏi Mai cân nặng bao nhiêu kg?
	Tôi cũng hướng dẫn học sinh tóm tắt bằng 2 cách.
Cách 1: Tóm tắt bằng lời.
	Hoa nặng	 : 28kg.
	Mai nặng hơn Hoa: 3kg.
	Mai	: ... kg?
Cách 2: Tóm tắt bằng sơ đồ.
	28kg
	Hoa: |-----------------------|
 3 kg
	Mai: |-----------------------|-----------|
 ? kg
	Đối với các bài toán về khối lượng, về đại lượng trong hình học, tôi đã lưu ý học sinh không nên dùng từ “số lượng” vào câu lời giải, chẳng hạn nhiều học sinh viết: Mai cân nặng số kg là:
Hoặc: Số kg của Mai là:
	Giáo viên nên sửa và khắc sâu cho học sinh cách nêu câu lời giải của các bài toán này là không đưa từ “số lượng” vào mà phải có từ “nặng”, chẳng hạn như: Mai cân nặng là:
	28 + 3 = 31 (kg)
	Đáp số: 31 kg.
	Cái khó nhất của học sinh là viết câu lời giải. Học sinh thường chép nguyên câu hỏi mà chưa biết chọn lựa từ để trả lời gãy gọn. Học sinh cũng hay lẫn, dùng sai đơn vị (của kết quả), thậm chí có em còn máy móc đến mức đề bài yêu cầu tính số tiền thì khi tìm được kết quả các em cũng lấy đơn vị là “tiền” mà lẽ ra phải là “đồng”.
	Ví dụ: Mẹ mua rau hết 600 đồng, mua hành hết 200 đồng. Hỏi mẹ phải trả hết bao nhiêu tiền? (bài 2 trang 164 – Toán 2).
	Có học sinh ghi trả lời kết quả: Mẹ mua hết 800 tiền.
	(đúng ra phải ghi: Số tiền mẹ phải trả là 800 đồng).
	Với những sai lầm của học sinh, việc sửa chữa cho học sinh không ai khác ngoài giáo viên. Nếu chúng ta không giúp đỡ các em thì dần dần sự sai lầm trong giải toán có lời văn sẽ ngày càng tăng, từ những kiến thức sai này sẽ dẫn các em đến những sai sót khác lớn hơn, sâu xa hơn, khiến các em thiếu tự tin, thậm chí “sợ” khi phải giải toán có lời văn. Nên tôi đã cố gắng rèn cho các em nắm thật chắc các thuật ngữ toán học, luyện cho các em thói quen thực hiện tốt từng bước giải.
	Bước 1: Đọc kĩ đề bài, trả lời câu hỏi: “Bài toán cho biết gì?” và bài toán “hỏi gì?”.
	Bước 2: Tóm tắt bài toán bằng ngôn từ thì phải thật ngắn gọn, rõ ràng, bằng sơ đồ đoạn thẳng thì chính xác.
	Bước 3: Từ tóm tắt vạch ra các bước giải.
	Bước 4: Suy nghĩ câu trả lời giải và thực hiện từng bước giải để tìm ra kết quả đúng.
	Bước 5: Kiểm tra kết quả.
	Giáo viên uốn nắn kịp thời, sửa chữa ngay các lỗi về đặt câu trả lời, về đơn vị của từng phép tính khi ghi kết quả. Để thông qua bài toán có lời văn, bỗi dưỡng nhận thức về ngôn từ và để các em hiểu sâu sắc, kỹ càng, giáo viên cần hướng các em giải một số bài toán có sẵn tóm tắt đầu bài. Học sinh tự đạt đề toán rồi giải. Dạng bài này sẽ tạo cho các em có suy luận logic và tính vận dụng thực tế.
III. Hiệu quả của việc rèn kỹ năng giải toán có lời văn cho học sinh lớp hai:
	Qua thời gian áp dụng những kinh nghiệm và hiểu biết của bản thân vào việc rèn kỹ năng giải toán có lời văn cho học sinh lớp 2. Tôi nhận thấy không những có nhiều em hơn biết cách giải loại toán này, mà còn tự biết nhận xét và giúp đỡ các bạn của mình một cách chính xác, khoa học chất lượng học tập của học sinh nâng lên.
	Cụ thể bảng đối chứng: Kết quả đạt được (phần bài toán có lời văn) tổng số 40 học sinh.
 Thời điểm
Kết quả
Khảo sát đầu năm
Cuối học kỳ I
- Số học sinh làm đúng hoàn toàn
- Số học sinh làm đúng từng phần
- Số học sinh làm sai
10
8
22
16
14
10
	Mặc dù thời gian đầu tư giúp đỡ các em cách giải một bài toán có lời văn chưa thật nhiều, nhưng thực tế các em rất tiến bộ tự tin hơn nhiều. Kết quả chưa phải là hoàn toàn thoả mãn, nhưng đây cũng là một chút ít kinh nghiệm giúp cho chất lượng học tập của các em được nâng lên rõ rệt góp phần đảm bảo được yêu cầu, mục tiêu của môn toán.
Phần 3:
Kết luận chung
	Qua thời gian nghiên cứu lí luận gắn bó với thực tế, với kết quả đã đạt được tôi nhận thấy quan tâm đầu tư cho việc dạy toán có lời văn ở lớp 2 nói riêng và tất cả các khối lớp nói chung là rất cần thiết và có thể thực hiện tốt với tất cả các đối tượng học sinh mà thực tế không phải bỏ nhiều thời gian làm ảnh hưởng đến các phần học khác. Một giờ dạy được đánh giá là thành công thì phải làm tốt từng khâu trong tiết dạy. Việc quan tâm đến dạy toán có lời văn là không thể thiếu. Làm tốt vấn đề này sẽ giúp học sinh tự tin hơn trước mọi khó khăn phải biết suy nghĩ cân nhắc rồi mới đi đến kết luận chính xác, biết cách lập luận mọi vẫn đề một cách logic, ngắn gọn, mạch lạc.
	Qua các biện pháp mà tôi vận dụng trong quá trình giảng dạy đã đạt hiệu quả, Tôi thấy: Để rèn luyện kỹ năng giải toán có lời văn cho học sinh được tôt thì người giáo viên cần thực hiện tốt 2 giải pháp đó là:
Phân loại các bài toán có lời văn.
Hướng dẫn học sinh giải toán theo 5 bước tôi đã trình bày ở trên.
Tóm lại: Giải toán có lời văn có vị trí đạc biệt quan trọng trong chương trình toán lớp 2. Hầu như tiết nào của chương trình cũng có bài toán có lời văn. Chính vì vậy việc rèn luyện kỹ năng giải toán có lời văn cho học sinh lớp 2 nhằm nâng cao chất lượng giáo dục, đáp ứng yêu cầu phát triển tư duy, trí tuệ và hình thành nhân cách cho mỗi học sinh.
	Hữu Nghị, ngày 28 tháng 2 năm 2011
	Người viết
	 Đinh Thị Oanh

Tài liệu đính kèm:

  • docsang kien kinh nghiem 2010.doc