Kinh nghiệm dạy phép nhân ở lớp 2

Kinh nghiệm dạy phép nhân ở lớp 2

 Môn toán cấp Tiểu học là một bộ phận trong chương trình môn toán phổ thông. Môn toán cấp tiểu học có một vai trò hết sức quan trọng trong việc hình thành nhân cách cho học sinh Tiểu học . Qua học toán góp phần hình thành và giáo dục các em nhiều mặt như rèn luyện phương pháp luận, phát triển trí thông minh , cách suy nghĩ độc lập, linh hoạt, sáng tạo, tính cần cù chịu khó trong mỗi con người. Môn toán cấp Tiểu học nhằm trang bị cho các em những kiến thức sơ giản ban đầu về kiến thức toán học, Là nền tảng đầu tiên trong hệ thống kiến thức toán học đa dạng và phong phú.

 Môn Toán lớp 2 là một bộ phận của môn toán cấp tiểu học. Môn toán ở lớp 2 nhằm giúp học sinh bước đầu có một số kiến thức cơ bản, đơn giản, thiết thực về phép cọng và phép trừ có nhớ trong phạm vi 100, phép nhân, phép chia và bảng nhân chia 2, 3,4,5 tên giọi các thành phần và mối quan hệ của phép tính, mối quan hệ giữa phép cộng và phép trừ, phép cọng và phép nhân,. phép cọng, phép trừ có nhớ một lần trong phạm vi 100, 1000; tính giá trị biểu thức có đến 2 dấu phép tính.v.v. Đặc biệt các em được học phép nhân và phép chia, bảng nhân, bảng chia 2,3,4,5. Giới thiệu khái niệm ban đầu về phép nhân: Lập phép nhân từ tổng các số hạng bằng nhau. Giới thiệu thừa số, tích. Giới thiệu ban đầu về phép chia, lập phép chia từ phép nhân có một thừa số chưa biết khi biết tích và thừa số kia.

 

doc 10 trang Người đăng haihoa22 Lượt xem 4925Lượt tải 1 Download
Bạn đang xem tài liệu "Kinh nghiệm dạy phép nhân ở lớp 2", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Mở đầu
 Môn toán cấp Tiểu học là một bộ phận trong chương trình môn toán phổ thông. Môn toán cấp tiểu học có một vai trò hết sức quan trọng trong việc hình thành nhân cách cho học sinh Tiểu học . Qua học toán góp phần hình thành và giáo dục các em nhiều mặt như rèn luyện phương pháp luận, phát triển trí thông minh , cách suy nghĩ độc lập, linh hoạt, sáng tạo, tính cần cù chịu khó trong mỗi con người. Môn toán cấp Tiểu học nhằm trang bị cho các em những kiến thức sơ giản ban đầu về kiến thức toán học, Là nền tảng đầu tiên trong hệ thống kiến thức toán học đa dạng và phong phú. 
 Môn Toán lớp 2 là một bộ phận của môn toán cấp tiểu học. Môn toán ở lớp 2 nhằm giúp học sinh bước đầu có một số kiến thức cơ bản, đơn giản, thiết thực về phép cọng và phép trừ có nhớ trong phạm vi 100, phép nhân, phép chia và bảng nhân chia 2, 3,4,5 tên giọi các thành phần và mối quan hệ của phép tính, mối quan hệ giữa phép cộng và phép trừ, phép cọng và phép nhân,... phép cọng, phép trừ có nhớ một lần trong phạm vi 100, 1000; tính giá trị biểu thức có đến 2 dấu phép tính.v..v. Đặc biệt các em được học phép nhân và phép chia, bảng nhân, bảng chia 2,3,4,5. Giới thiệu khái niệm ban đầu về phép nhân: Lập phép nhân từ tổng các số hạng bằng nhau. Giới thiệu thừa số, tích. Giới thiệu ban đầu về phép chia, lập phép chia từ phép nhân có một thừa số chưa biết khi biết tích và thừa số kia...
 Trong dạy phép nhân đối với học sinh lớp 2, đây là một khái niệm mới đối với các em, là điểm mới của chương trình hiện hành do đó nhiều giáo viên lúng túng khi dạy học phần này (Học từ tuần 19 - 25). Đặc biệt là phần dạy phép nhân cho các em. Trong quá trình dạy học phần này tôi rút ra một số kinh nghiệm nhằm dạy tốt phép nhân , bảng nhân cho học sinh lớp 2 như sau .
A : thực trạng về Nhận thức và phương pháp dạy học hiện nay
 Năm học 2003-2004 là năm học đầu tiên thực hiện chương trình thay sách lớp 2.Trong quá trình thực hiện chương trình toán 2 đòi hỏi người giáo viên phải đầu tư nghiên cứu, tìm tòi để thấy được sự đổi mới của chương trình, sách giáo khoa mới nhằm khắc phục những hạn chế của chương trình cũ đó là sự mất cân đối trong cấu trúc nội dung kiến thức và thời lượng dạy học, chẳng hạn như chương trình toán ở lớp 2, lớp 3 thì nhẹ nhàng, còn chương trình Toán lớp 4, lớp 5 thì nặng, mọi kiến thức đổ dồn cho lớp 5 . Kết cấu chương trình còn nghiêng về truyền thụ các kiến thức, kĩ năng tính toán . Phần thực hành còn hạn chế nhất là một số nội dung có liên quan đến thực tiễn học tập và đời sống hàng ngày . Trong quá trình dạy -học người giáo viên đang đóng vai trò trung tâm chưa phát huy được việc tích cực hóa và cá thể hóa hoạt động học tập của học sinh . Học sinh chưa có điều kiện để tự phát hiện và tự chiếm lĩnh kiến thức, chưa được hoạt động để tìm ra kiến thức mới.
 Trong những năm đầu thay sách giáo viên ai cũng trăn trở và lo lắng trong việc tìm ra giải pháp dạy -học phù hợp để học sinh học tập đạt kết quả cao . Đặc biệt là học sinh lớp 2 khi mới tiếp xúc với phép nhân. Qua những năm thực hiện giáo viên đã tích cực thực hiện tinh thần đổi mới hình thức - phương pháp dạy học thế nhưng đôi lúc cũng không tránh khỏi lúng túng trong việc giảng dạy phần phép nhân ở lớp 2 . Tuy dạy một số kiến thức đơn giản nhưng làm cho học sinh tự hiểu vấn đề đó lại là rất khó . Các phương pháp dạy học toán 2 cơ bản không có gì mới song với phương châm gợi mở, hướng dẫn động viên học sinh tích cực suy nghĩ , tìm tòi giải quyết vấn đề nêu ra trong tiết học, cách lập phép nhân, lập bảng nhân học sinh vẫn còn lúng túng, giáo viên lúng túng khi tiếp cận phương pháp dạy học mới.
 Với sự cố gắng của GV-HS những năm học vừa qua thì chất lượng đại trà của việc dạy toán lớp 2, đặc biệt là dạy các bảng nhân ở lớp 2 đã thu được những thành công nhất định, song chưa đáp ứng được chuẩn các kiến thức kỹ năng mà các em cần đạt được. Đòi hỏi GVphải đi sâu hơn nữa để tìm ra giải pháp cụ thể nhằm giúp học sinh học toán 2 được tốt hơn .
B/ Một số kinh nghiệm dạy phép nhân khi dạy học Toán 2
 Dạy học toán 2 cũng như dạy học các môn khác, giáo viên cần đổi mới phương pháp dạy học " Lấy học sinh làm trung tâm" Giáo viên là người tổ chức, hướng dẫn, học sinh hoạt động một cách chủ động tự tìm tìm, sáng tạo phát hiện ra kiến thức mới cần nắm.
 Muốn giúp trẻ lớp 2 học toán đạt hiệu quả cao đồi hỏi người dạy phải hiểu rõ và nắm vững mục tiêu sau khi học toán 2 học sinh cần đạt được các yêu cầu sau:
 Biết đếm, đọc, viết, so sánh, cộng, trừ các số trong phạm vi 1000 nhớ không quá 1 lần. Làm quen với phép nhân và phép chia dạng đơn giản. Bước đầu thực hành và đo lường với một số đơn vị đã học và với dm, m, mm, km, lít, kg, tiền Việt Nam. Nhận biết một số hình đơn giản( đường thẳng, đường gấp khúc, hình tứ giác, hình chữ nhật) Biết vẽ đoạn thẳng, tính chu vi hình tam giác, hình tứ giác. Biết giải các bài toán có một phép tính cộng, trừ, nhân, chia.
 Tập phân tích, so sánh, tổng hợp, trừu tượng hóa, khái quát hóa trong phương vị những nội dung có quan hệ với cuộc sống thực tế học sinh. Chăm chỉ, cẩn thận, tự tin có hứng thú khi học toán .
 Trong quá trình giảng dạy người GV phải nắm được chương trình toán 2 là một bộ phận của chương trình môn toán Tiểu học. Nó kế thừa và phát triển những thành tựu về dạy học toán lớp 1 ở nước ta .. Từ đó tự xây dựng kế hoạch dạy -học từng phần nhằm đạt được tính hiệu quả và tính lô gíc trong toàn bộ chương trình . Đảm bảo sự liên hệ giữa các dạng bài tập và các mạch kiến thức trong chương trình học .
 Qua những năm thực hiện chương trình toán 2 theo tinh thần đổi mới tôi thấy kết quả học tập của học sinh trội hơn nhiều so với học chương trình cũ về nhận thức và tính toán . Nhưng so với yêu cầu 100% học sinh nắm vững kiến thức cơ bản và có kĩ năng thực hành thì đòi hỏi người dạy phải đầu tư nghiên cứu , học hỏi nhiều hơn . Chính vì vậy mà năm học 2007-2008 việc giúp học sinh học toán 2 đạt hiệu quả hơn được chúng tôi chọn làm đề tài sáng kiến kinh nghiệm với mục đích nâng cao chất lượng giáo dục và làm cơ sở vững chắc cho năm sau .Góp phần tích cực thực hiện cuộc vận động " Nói không với tiêu cực trong thi cử và bệnh thành tích trong giáo dục ". Tôi mạnh dạn triển khai áp dụng một số giải pháp sau:
 II/ Giải pháp mới :
1. Tổ chức cho học sinh hoạt động để tự phát hiện và tự giải quyết vấn đề bằng nhiều phương pháp khác nhau : 
a-Ví dụ : Khi học bài phép nhân ta có thể tiến hành như sau:
 Giáo viên cùng học sinh hoạt động trên đồ dùng học tập và thiết bị dạy học của giáo viên. Cho học sinh lấy tấm bìa có hai chấm tròn, hỏi " Tấm bìa có mấy chấm tròn?" ( Tấm bìa có hai chấm tròn). Cho học sinh lấy 5 tấm bìa như thế và nêu câu hỏi để học sinh trả lời, chẳng hạn: " Có 5 tấm bìa, mỗi tấm bìa đều có 2 chấm tròn ( hoặc 2 chấm tròn được lấy 5 lần), vậy có tất cả bao nhiêu chấm tròn?
Cho học sinh tự tìm trên đồ dùng mà các em đã lấy rối nêu kết quả. Có thể các em dùng phép đếm, phép đếm thêm 2, có thể các em dùng phép cọng: 2 + 2 + 2 + 2 + 2 = 10 (chấm tròn)
b- Tạo điều kiên để học sinh tự chiếm lĩnh kiến thức mới : 
 Sau khi học sinh đã phát hiện và giải quyết được vấn đề nêu ra GV chú ý khâu hình thành kiến thức mới cho học sinh . Qua việc hướng dẫn thực hành làm bài tập để khẳng định học sinh tự chiếm lĩnh kiến thức mới ở mức độ nào.
 Như vậy qua quá trình học sinh hoạt động tự tìm ra kết quả bằng nhiều con đường khác nhau nhưng giáo viên cần kết luận bằng con đường khoa học nhất đó là:
Muốn biết có bao nhiêu chấm tròn chúng ta phải tính tổng
 2 + 2 + 2 + 2 + 2 = 10 (chấm tròn)
Giáo viên hướng dẫn để các em nhận xét: " Tổng 2 + 2 + 2 + 2 + 2 có 5 số hạng, mỗi số hạng đều bằng 2". Ta chuyển thành phép nhân, viết như sau: 2 x 5 = 10
Giáo viên trình bày lên bảng như sau;
 2 + 2 + 2 + 2 + 2 = 10
 2 x 5 = 10
 Như vậy trong quá trình dạy học chúng ta phải tạo điều kiện cho các em hoạt động sáng tạo tự tìm ra kết quả bằng nhiều con đường khác nhau nhưng giáo viên phải kết luận bằng con đường khoa học nhất.
c- Giúp học sinh biết cách học :
 Tự tìm ra cách phát hiện và lĩnh hội kiến thức mới như sau : Từ tình huống trong thực tế cuộc sống giúp học sinh nêu được vấn đề cần giải quyết dưới dạng câu hỏi hoặc nêu bài toán . Giải quyết được vấn đề đó sẽ giúp học sinh tìm ra kiến thức mới ( Số mới , cách tính mới... )
Ví dụ : 2 nhân 3 bằng bao nhiêu?
Học sinh tự tìm cách thực hiện bằng cách lấy 3 tấm bìa mỗi tấm bìa có 2 chấm tròn rồi dùng phép cọng 2 + 2 + 2 = 6 . Từ đó giúp học sinh vận dụng vào một số tình huống mới trong thực hiện phép tính :
Chẳng hạn: 2 x 4 =? Học sinh không chỉ biết cách lấy 2 + 2 + 2 + 2 = 8 mà các em có thể lấy 4 + 4 = 8. 
d- Hướng dẫn học sinh thiết lập phần kiến thức đã học với kiến thức mới học : Đặt kiến thức mới học trong mối quan hệ với kiến thức đã học để đảm bảo tính hệ thống , tính lô gíc của vấn đề.
 Ví dụ : Khi dạy bài " Bảng nhân 2" Để hình thành bảng nhân 2 .Ta cho học sinh quan sát và thực hiện lấy tấm bìa có 2 chấm tròn, lấy một lần được mấy chấm tròn? ( 2 chấm tròn) khi đó giáo viên viết 
 2 x 1 = 2
 Và cứ như thế học sinh lấy các tấm bìa có 2 chấm tròn số lần khác nhau để xây dựng bảng nhân 2.
 .Tương tự học sinh hiểu thêm về Phép nhân và biết cách lập các bảng nhân khác, tìm ra kết quả phép nhân khi chưa thuộc bảng nhân.
2/ Dạy cách học thuộc bảng nhân.
 Sau khi thành lập xong bảng nhân giáo viên cho các em đọc bảng nhân và dạy cho các em học thuộc ngay tại lớp.
 Chẳng hạn bảng nhân 2. Giáo viên cho các em đọc lần lượt từ trên xuống dưới, rồi cho đọc từ dưới lên trên nhiều lần. Sau đó giáo viên xoá dần kết quả. Chẳng hạn:
 2 x 2= 2
2 x 2= 4
2 x 3 =...
2 x 4 = 8
2 x 5 =...
2 x 6 = 12
.................
 Tương tự cho học sinh nhớ và đọc bảng lần lượt từ trên xuồng dưới, rồi từ dưới lên trên.
3. Dạy phần thực hành luyện tập
 * Nhiệm vụ chủ yếu của bài thực hành luyện tập là củng cố các kiến thức ,rèn kĩ năng nhân qua việc giải các dạng bài tập thực hành .Vì vậy GV cần giúp học sinh nhận ra kiến thức cần ôn trong các dạng bài tập khác nhau .Từ đó học sinh nhận ra kiến thức đã học trong mối quan hệ mới . Nếu học sinh không nhận ra được kiến thức đã học trong các dạng bài tập khác nhau GV có thể gợi ý , hướng dẫn nhớ lại kiến thức và biết cách làm bài tập không được làm thay học sinh. 
Số
 Ví dụ : Khi học bài luyện tập củng cố phép nhân 2 ta có thể thực hiện như sau:
Bài 1: ?
2
 x 8
Học sinh dễ dàng nhớ lại và sử dụng bảng nhân 2 vừa học . Nhưng nếu làm bài tập 3 "Mỗi xe đạp có 2 bánh xe. Hỏi 8 xe đạp có bao nhiêu bánh xe?" Thì học sinh phải nhận ra mỗi lần lấy 2 bánh xe. lấy 8 lần tức là 2 x 8 
 Từ đó biết vận dụng bảng nhân 2 x 8 = 16 ( bánh xe)
 *Giáo viên phải biết tận dụng thời gian làm bài trên lớp phù hợp với từng đối tượng học sinh nhưng phải theo thứ tự bài tập sắp xếp theo mức độ yêu cầu bài tập từ đễ đến khó. Những bài tập đễ ưu tiên chấm nhữnh học sinh yếu hơn đẻ các em đạt điểm cao, đông viên các em học tập. ( Không nên đảo trật tự sắp xếp bài tập ở SGK). Quan tâm nhiều hơn 2 đối tượng : HS khá - HS yếu về số lượng và mức độ bài tập .
HS khá làm hết bài tập tại lớp lưu ý mở rộng , khai thác sâu nội dung .
HS yếu làm bài tập theo yêu cầu kiến thức cơ bản .
* Trong quá trình làm bài tập GV cần lưu ý việc thay đổi phương pháp và không khí học tập giữa HS - HS. Khuyến khích các em thể hiện suy nghĩ của mình cùng tham gia thảo luận .
Ví dụ : Sau khi chữa bài GV cho học sinh đổi vở kiểm tra chéo bài của bạn theo nhóm cặp . Khuyến khích HS nhận xét bài của bạn . Từ đó HS cảm thấy tự tin hơn về cách làm bài của mình , rút kinh nghiệm khi trao đổi bài với bạn .
* Quan tâm rèn luyện HS tính cẩn thận ,kĩ năng tính toán khi làm bài . Tâm lí HS Tiểu học muốn làm bài nhanh hơn bạn để được cô giáo chấm điểm . Nên thường có những sơ suất khi làm bài . Vì vậy cần tạo HS thói quen tự kiểm tra bài làm , suy nghĩ tìm nhiều cách giải có thể cho 1 bài toán . Nhận biết được cách giải nhanh hơn , hay hơn .Tạo các em niềm tin ,sự hứng thú trong giải toán .
* Đối với bài toán có lời văn : cần chú ý hướng dẫn HS khai thác tình huống Biết tìm và giải quyết vấn đề . Học sinh biết tóm tắt , viết lời giải và phép tính tương ứng . Hiểu được lời giải là câu trả lời của phần cần tìm ( phép tính). Khi luyện tập GV có thể diễn đạt bài toán bằng nhiều cách nói khác nhau giúp học sinh định hướng và xác định rõ dạng bài tập tìm phương pháp giải hay nhất .
Yêu cầu HS đọc kĩ đề -Tự tóm tắt bài toán . Trình bày bài giải rõ ràng . Có thể tìm ra nhiều cách diễn đạt lời giải khác ,cách giải khác . 
* Tạo hoạt động trò chơi học tập gây hứng thú trong tiết học:
 Việc dạy -học toán dưới dạng trò chơi toán học là rất cần thiết và phù hợp với tâm lí học sinh tiểu học . Thực tế cho thấy hình thức tổ chức trò chơi toán học dễ được học sinh hưởng ứng và tích cực tham gia . Dạy học theo hình thức này rất đúng với tinh thần đổi mới phương pháp dạy -học của ngành GD hiện nay . Với hình thức dạy học này GVchỉ là người tổ chức hướng dẫn ,còn học sinh thực sự là người thực hiện thi công .
 Thế nhưng để dạy học theo phương pháp này đòi hỏi người GVphải tự nghiên cứu , tìm tòi sáng tạo ra trò chơi mới . Để tạo ra được các trò chơi mới đơn giản dễ chuẩn bị ,dễ tổ chức mang lại hiệu quả cao cần chú ý mấy điểm sau:
- Điều quan trọng hàng đầu là người GV phải có lòng yêu nghề ,tận tâm với học sinh và say sưa với công việc .
- Giáo viên phải chịu khó tham khảo, nghiên cứu tìm tòi sáng tạo mới có thể biến những lệnh làm việc, những bài tập, những câu hỏi ...thành những trò chơi hấp dẫn, lí thú .
- Sáng tác trò chơi phải xác định được rõ mục đích học tập của trò chơi, phải căn cứ vào nội dung kiến thức, trình độ học sinh mà mình phụ trách .Trò chơi cần có hình thức ngấn gọn, cách chơi dễ hiểu, dễ thực hiện . Luật chơi rõ ràng mới kích thích được hứng thú học tập của học sinh, trò chơi mới mang lại hiệu quả đích thực .
Ví dụ : Dạy bài toán nối phép tính với kết quả đúng ta có thể đưa về hoạt động trò chơi: " Đưa chim về tổ "
- Mục đích : Rèn luyện kĩ năng thực hiện phép tính .
- Chuẩn bị : 2 tấm bảng phụ ghi sẵn phép tính ,kết quả của phép tính như sau:
 18
 2 x 5
 9 x 2
 2 x 9
 5 x 2
 12
 10
 5 x 2
 2 x 6
 - Cách chơi: GV treo 2 bảng phụ ghi sẵn đề bài lên bảng . Lớp chia thành 3 nhóm lớn . Nhóm 1 và nhóm 3 mỗi nhóm cử 3 học sinh đại diện tham gia trò chơi ,Nhóm ở giữa làm trọng tài. Khi có hiệu lệnh chơi các đại diện mỗi nhóm chuyền bút cho nhau nối phép tính với kết quả đúng . HS dưới lớp cổ vũ cho nhóm của mình .
- Luật chơi : Nhóm nào làm nhanh ,đúng thì dành chiến thắng ,còn nhóm chậm hơn thì chịu phạt hát một bài .
- Tổng kết trò chơi : đại diện tổ trọng tài nêu ý kiến nhận xét về thời gian, kết quả của từng nhóm cùng với GV kết thúc trò chơi
 C / Kết quả sau khi áp dụng 
 Những giải pháp trên đây đã được áp dụng ngay từ đầu năm học 2006-2007 trong phạm vi 2 lớp 2 ở Trường Tiểu học Diễn Lâm 1 với tổng số 103 học sinh .
 Trong năm thực hiện giải pháp trên tôi thấy hiệu quả giờ học toán 2 nâng lên rõ rệt . Học sinh tích cực học tập, hiểu bài, vận dụng kiến thức vào làm bài tập đúng hơn .Học sinh mạnh dạn, tự tin có hứng thú khi học toán . 100% học sinh có ý thức tự giác làm bài tập và làm bài đúng sau khi học . Học sinh hiểu kiến thức mới ngay tại lớp . Trả lời bài toán đúng ,rõ ràng . GV không phải uốn nắn nhiều như năm trước . Học sinh đã có kĩ năng sử dụng thành thạo tính nhân và tìm kết quả phép nhân .Các bài tập thuộc yêu cầu kiến thức cơ bản được học sinh hiểu đúng ,nhanh ngay trong tiết học tại lớp . Học sinh điền số ,giải toán thành thạo và đặc biệt là các em có lời giải đúng khi giải toán có lời văn . Một số kiến thức được HS hiểu sâu hơn vận dụng làm toán mở rộng kiến thức góp phần bồi dưỡng học sinh khá giỏi tốt hơn. Không những chất lượng môn toán được nâng lên mà kết quả học tập môn Tiếng việt cũng cao hơn. 
Kết quả đạt được của lớp 2C Trường Tiểu Diễn Lâm cụ thể như sau: 
Năm học
T.số HS
Xếp loại học lực môn toán
TB trở lên
Giỏi
Khá
TB
Yếu
SL
TL
SL
TL
SL
TL
SL
TL
SL
TL
2007-2008
21
21
100%
10
45.3%
7
32.9%
4
18.8%
0
0
 D/ Bài học kinh nghiệm 
 Chương trình Tiểu học 2000 nói chung, lớp 2 nói riêng đã có nhiều chuyển biến tích cực trong việc nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện . Để nâng cao chất lượng dạy học toán 2 đạt kết quả tốt đòi hỏi người GV cần quan tâm một số ván đề sau:
1/ Nghiên cứu ,tìm tòi nắm vững mục tiêu - nội dung chương trình để từ đó xây dựng kế hoạch dạy học phù hợp cho từng mảng kiến thức ,từng bài dạy cụ thể.
2/ Trong quá trình dạy học phải hướng dẫn học sinh biết cách học và tạo được nhu cầu tự học của mỗi học sinh. Hiểu được sự đổi mới trong cấu trúc và cách thể hiện nội dung chương trình để lựa chọn ,sử dụng các phương pháp ,hình thức dạy học linh hoạt ,sáng tạo phù hợp đặc điểm học sinh lớp mình phụ trách .nhằm tích cực hóa hoạt động học tập .Phát triển năng lực ,tốc độ học của mỗi học sinh.
3/ Tạo mối quan hệ hợp tác giữa GV_HS; HS_HS trong môi trường GD.Coi trọng -khuyến khích sự sáng tạo của HS. Giúp HS tự phát hiện -Tự giải quyết vấn đề của bài học theo sơ đồ:
Tình huống có vấn đề HS định hướng giải quyết vấn đề HS tự phát hiện 
 Củng cố bước đầu Độc lập các hoạt động Tự giải quyết vấn đề
 GV và HS cùng đi đến kết luận .
 Mục đích cuối cùng của giờ học toán là HS phải được hoạt động và hoạt động đó phải được hướng tới sự phát triển năng lực cá nhân để HS là người tự tìm tòi ,khám phá ,chiếm lĩnh và vận dụng được tri thức .Muốn đạt được điều đó đòi hỏi người GVphải căn cứ vào mục tiêu -nội dung chương trình ,yêu cầu về kiến thức -kĩ năng ,năng lực HS để phát huy tối đa những mặt mạnh của từng phương pháp ,từng hình thức tổ chức dạy học .Tạo cho HS không khí học tập tích cực , nhẹ nhàng tự nhiên phù hợp tâm lí học sinh lớp 2 .Vừa học vừa chơi nhưng mang lại hiệu quả cao.
 Trên đây là một số giải pháp nâng cao hiệu quả dạy phép nhân trong chương trình toán 2 đã được áp dụng ở trường Tiểu học Diễn Lâm 1 và bước đầu có kết quả tốt . Tôi rất mong nhận nhận được những ý kiến đóng góp ,bổ sung phê bình của các đồng nghiệp để việc dạy -học toán 2 ngày càng đạt chất lượng tốt hơn.
 Tôi xin chân thành cảm ơn!
 Diễn Lâm, ngày 15 tháng 5 năm 2008

Tài liệu đính kèm:

  • docMot so giai phap hoc tot toan 2.doc